Chu Du

[[Tập tin:ZhouYu.jpg|nhỏ|giữa|Hình ảnh minh họa Chu Du thời nhà Thanh.]]
Tên gọi
Chữ Hán giản thể: 周瑜
Bính âm: Zhōu Yú
Tên tự: Công Cẩn
(公瑾)
Tên khác: Mỹ Chu Lang
(美周郎)

Chu Du (chữ Hán: 周瑜; 175 - 210), tên tự Công Cẩn (公瑾), đương thời gọi Chu Lang (周郎), là danh tướng và khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Ông là một nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại đô đốc, nên được gọi là Chu Đô đốc (周都督). Bên cạnh đó, ông có biệt tài về âm nhạc, có câu truyền rằng Khúc hữu ngộ, Chu Lang cố (曲有誤,周郎顧) để nói lên tài năng âm nhạc của ông.

Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở Trận Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó. Sau trận Xích Bích, cục diện Tam Quốc mới hoàn toàn phân định, là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử, dẫn đến việc Chu Du cũng trở thành một trứ danh tướng quân trong lịch sử. Tuy nhiên, chiến thắng trận Xích Bích chỉ sau 2 năm thì ông qua đời.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung, Chu Du được mô tả là tuổi trẻ tài cao nhưng đố kị với Gia Cát Lượng.

Thân thế

Chu Du sinh ra và lớn lên tại huyện Thư, quận Lư Giang. Lư Giang thuộc vùng Hoài Nam của Trung Nguyên, nhưng rất gần đất Ngô Việt (ngày nay là Thư Thành, An Huy thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa).

Gia đình Chu Du đều là danh sĩ, cha ông là Chu Dị (周異) từng làm quan huyện lệnh Lạc Dương. Ông nội ông là Chu Cảnh (周景) và chú là Chu Trung (周忠) từng làm quan đến chức Thái úy. Một người chú khác của Chu Du là Chu Thượng (周尚) có thời gian làm Thái thú Đan Dương.

Chu Du tuổi trẻ tài cao, nổi tiếng đẹp trai ở Giang Đông. Sử thư Tam quốc chí chép ông "khôi ngô hùng vĩ, dung mạo tuyệt đẹp" và còn nói thêm "người Giang Đông gọi ông là Chu Lang. Lang là chỉ người đàn ông anh tuấn, kêu bằng Lang là để tán dương vẻ đẹp của người được gọi. Giang Đông có hai người được gọi là Lang: Chu Du và Tôn Sách.".

Từ nhỏ ông đã khổ công học hành, ham mê nghiên cứu binh pháp. Trước khi Tôn Kiên khởi binh đánh Đổng Trác có chuyển nhà đến huyện Thư. Chu Du gặp con Tôn Kiên là Tôn Sách, hai người cùng tuổi, kết bạn với nhau rất thân. Chu Du để gia đình Tôn Sách ở dãy nhà phía Nam hướng ra đường lớn nhà mình. Hai nhà cùng giúp đỡ nhau lúc khó khăn. Hai người cùng kết giao với các danh sĩ ở Giang Nam, được mọi người biết đến.

Năm 191, Tôn Kiên bị giết trong cuộc chiến với Lưu Biểu. Chu Du lúc đó đang ở với chú là Chu Thượng làm Thái thú Đan Dương. Tôn Sách sau một thời gian cống hiến cho Viên Thuật không được trọng dụng bèn tìm cách ly khai. Năm 20 tuổi (194), Tôn Sách bắt đầu khởi binh ở Lịch Dương, ôm chí muốn chinh phục Giang Đông, bèn viết thư cho Chu Du. Chu Du lập tức đem binh lương giúp Tôn Sách, theo Tôn Sách bắt đầu đánh dẹp các nơi.

Giúp Tôn Sách

Chu Du theo Tôn Sách đánh Hoành Giang, Dương Lợi, rồi vượt sông đánh Mạt Lăng, chiếm Hồ Thục, Giang Thừa, tiến vào Khúc A tấn công Thứ sử Dương châu là Lưu Do. Quân Tôn Sách và Chu Du đánh đâu thắng đó, tập hợp được hàng vạn người.

Sau đó Tôn Sách sai Chu Du về hiệp lực với Chu Thượng giữ Đan Dương, còn Tôn Sách đi đánh Ngô quận và Cối Kê, bình định vùng Sơn Việt. Khi Tôn Sách ra quân thì Viên Thuật sai em họ là Viên Dận ra làm Thái thú Đan Dương thay Chu Thượng. Chu Thượng không chống cự được Viên Dận bèn cùng Chu Du bỏ chạy về Thọ Xuân.

Viên Thuật thấy Chu Du là người có tài, bèn mời ông đến làm bộ tướng, nhưng Chu Du nhận thấy Viên Thuật không làm nên việc lớn, nên tìm cách thoái thác, chỉ xin làm quan huyện ở Cư Sào để tìm cách trở về Giang Đông theo Tôn Sách.

Trong thời gian ở Cư Sào, Chu Du đã gặp và kết giao với Lỗ Túc. Lỗ Túc cũng được Viên Thuật mời về phục vụ nhưng Lỗ Túc cũng tìm cách từ chối và trở về Cư Sào theo Chu Du. Sang năm 198, cả hai người bỏ Cư Sào về Ngô quận theo Tôn Sách.

Tôn Sách nghe tin Chu Du về Ngô quận bèn tự mình ra đón và phong ông làm Kiến uy trung lang tướng, giao cho 2000 quân và 50 ngựa chiến. Mọi người đều khen ngợi ông và gọi là Chu Lang[1]. Ông được sai trấn thủ Ngưu Chử, sau đó kiêm chức Trưởng quan Xuân Cốc[2].

Năm 199, Tôn Sách cùng Chu Du, Lã PhạmTrình Phổ đi đánh Hoàng Tổ ở quận Giang Hạ thuộc Kinh châu của Lưu Biểu để báo thù cho cha. Chu Du được phong làm Trung hộ quân, Thái thú Giang Hạ[3].

Tôn Sách và Chu Du đang trên đường đem quân tấn công Hoàng Tổ tại Hạ Khẩu (夏口, ngày nay là Hán Khẩu, Vũ Hán, Hồ Bắc) thì nhận được tin: Viên Thuật đã chết, lực lượng phân hóa làm 2: Em họ là Viên Dận thì đem theo quan tài Viên Thuật và quân đội họ Viên đến Hoãn Thành (皖城, ngày nay là huyện Tiềm Sơn, An Huy) nương tựa vào Thái thú Lư Giang là Lưu Huân (劉勳) vốn được Viên Thuật phong; còn bộ tướng của Thuật là Trương Huân và trưởng sử Dương Hoằng bỏ Thọ Xuân đến địa bàn của Tôn Sách định theo hàng, nhưng Thái thú Lư Giang là Lưu Huân lại chặn đường họ giết chết để cướp của và quân chúng.

Tôn Sách rất hận Lưu Huân[4], nhưng ngoài mặt vẫn đi lại, và đề nghị Lưu Huân đi Thượng Diên[5] đánh các dòng họ đóng cửa địa bàn không thuần phục. Lưu Huân không biết là kế lừa, mang quân tới Hải Hôn và Thự Liêu, Tôn Sách bèn cùng Chu Du mang 2 vạn quân đánh tập kích vào quận Lư Giang, chiếm được Hoãn Thành, tiếp quản toàn bộ số quân cũ của Viên Thuật khoảng 30.000 người.

Tại Hoãn Thành họ gặp hai tiểu thư đẹp nổi tiếng con của Kiều công và lấy làm vợ: Tôn Sách lấy Đại Kiều, Chu Du lấy Tiểu Kiều.

Nghe tin căn cứ bị mất, Lưu Huân chạy về phía tây và tìm kiếm sự hỗ trợ của Hoàng Tổ. Hoàng Tổ gửi 5.000 thủy quân thiện chiến tới giúp Lưu Huân. Tôn Sách đánh bại Lưu Huân khiến Huân phải chạy về phía bắc đầu hàng Tào Tháo. Tôn Sách thu được trên 2.000 quân cùng 1.000 tàu thuyền của Lưu Huân rồi cùng Chu Du tiến quân đánh Hoàng Tổ, bắt sống 2000 quân Lư Giang và 1000 chiếc thuyền[6].

Đuổi được Lưu Huân, Tôn Sách và Chu Du quay sang đánh Hoàng Tổ. Hai bên đánh một trận lớn nữa ở gần Vũ Xương. Mặc dù đã được tăng cường thêm quân từ phía Lưu Biểu, nhưng Hoàng Tổ vẫn bại trận. Chu Du theo Tôn Sách tiến đến quận Dự Chương, dụ hàng Thái thú Hoa Hâm (dưới quyền Lưu Do đã chết), thu được quận Dự Chương. Tôn Sách mang đại quân về Khúc A, Chu Du được lệnh đóng quân trấn giữ Ba Khâu.

Giúp Tôn Quyền

Đề nghị không gửi con tin

Tôn Sách chiếm lĩnh 5 quận Giang Đông là Cối Kê, Ngô quận, Đan Dương, Dự Chương và Lư Lăng[7]. Năm 200, Tôn Sách bị thích khách đâm trọng thương rồi qua đời. Em là Tôn Quyền lên thay. Chu Du chuyển từ thành Ba Khâu về Ngô Quận chịu tang Tôn Sách. Ông được Tôn Quyền và Trương Chiêu giữ lại Ngô Quận để giúp chúa nhỏ, trở thành nhân vật số 2 trong chính quyền họ Tôn sau Trương Chiêu[8].

Năm 202, Tào Tháo gửi thư yêu cầu Tôn Quyền đưa con vào Hứa Xương làm con tin. Tôn Quyền hỏi ý kiến các quan văn nhưng Trương Chiêu đứng đầu số họ do dự không quyết vì e ngại Tào Tháo đang rất mạnh sau khi thắng Viên Thiệu ở Quan Độ (năm 200). Chu Du bèn đến gặp Tôn Quyền và Ngô thái phu nhân (mẹ Tôn Quyền, vợ Tôn Kiên), nêu rõ ý kiến của mình. Ông cho rằng Tôn Quyền không thể gửi con tin vì như vậy sẽ lệ thuộc vào Tào Tháo, mặt khác ông nhấn mạnh Tôn Quyền không nên e ngại sức mạnh của Tào Tháo. Tôn Quyền nghe theo, không gửi con tin. Tào Tháo đang bận bình định Hà Bắc nên chưa thể quan tâm tới miền nam[8].

Chu Du thuyết phục được người bạn là danh sĩ Lỗ Túc ở Đông Thành về gặp Tôn Quyền. Lỗ Túc cũng trở thành người phò tá đắc lực cho Tôn Quyền.

Đánh trận Xích Bích

Năm 208, Tôn Quyền lại mang quân đánh thái thú Hoàng Tổ ở quận Giang Hạ (thuộc Kinh châu của Lưu Biểu), giết được Hoàng Tổ. Tào Tháo nghe tin Tôn Quyền tiến sang Kinh châu, vội khởi đại quân nam tiến để tranh giành Kinh châu[9].

Giữa lúc đó Lưu Biểu chết bệnh, con là Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, lấy danh nghĩa của Hán đế để yêu cầu Tôn Quyền đầu hàng. Lưu Bị cũng cho sứ giả cầu cứu. Các quan nước Ngô chia làm 2 phe, phe chủ hàng do Trương Chiêu cầm đầu, phe chủ chiến do Chu Du và Lỗ Túc đứng đầu. Chu Du phân tích cho Tôn Quyền tình hình chiến lược như sau:

  • Địa thế: Đất Ngô có sông bao bọc. Tào Tháo không có thủy quân giỏi.
  • Tình thế: Tào Tháo chưa bình định xong vùng Tây Lương, không thể ở lâu.
  • Thời điểm: Đang là mùa đông, đất Ngô khí hậu ẩm ướt, quân phương Bắc sẽ sinh bệnh.

Tôn Quyền cho Chu Du và Trình Phổ đi hợp quân với Lưu Bị. Quân Tào đóng ở bờ bắc sông Xích Bích, quân Ngô đóng ở bờ nam.

Quân của Chu Du ít hơn nhiều, nhưng lại chiếm ưu thế về thủy chiến, Tào Tháo không thể qua sông nên đóng trại ở bờ bắc để huấn luyện quân. Ông ta dùng xích sắt nối thuyền lớn lại theo lối của kị binh liên hoàn mã, gọi đó là "Liên hoàn thuyền".

Hoàng Cái giả đầu hàng Tào Tháo, và vào một đêm có gió đông nam, quân Ngô dùng hỏa công đánh trại của Tào Tháo. Các thuyền chiến quân Tào bị khóa không chạy tản ra được, đều bị thiêu. Quân Tào thua to bỏ chạy.

Do bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đuổi, Tào Tháo cho Tào Nhân giữ Nam Quận, rồi rút về phương bắc. Trận Xích Bích đưa tên tuổi Chu Du nổi lên, và được liệt vào hàng những tướng giỏi của lịch sử Trung Quốc.

Từ chối Tưởng Cán

Chu Du từ đó càng được Tôn Quyền tín nhiệm. Năm 209[10], Tào Tháo sai người bạn cũ của ông là Tưởng Cán đến thăm và dụ hàng ông. Dù Tưởng Cán đóng vai kẻ sĩ nhàn tản đến gặp với tư cách bạn bè, Chu Du vẫn nhận ra dụng ý của họ Tưởng. Ông hậu đãi Tưởng Cán mấy ngày rồi nói thẳng quan điểm của mình không bao giờ thay lòng đổi dạ thờ họ Tôn. Tưởng Cán biết không thể dụ được ông, đành quay về báo lại cho Tào Tháo[11]. Các danh sĩ Giang Đông vì vậy càng kính phục Chu Du[9].

Tranh giành Kinh châu

Chu Du cùng Trình Phổ tiến đánh Nam Quận. Quân Chu Du cùng quân Tào Nhân hai bên giằng co ở hai bờ sông, trong lúc đánh thành thì bị tên bắn trọng thương. Tào Nhân nghe tin ông bị thương thì kéo ra khỏi thành đánh, nhưng Chu Du dù bị thương vẫn huy động quân sĩ đánh bại Tào Nhân.

Tôn Quyền bèn phong cho Chu Du làm Thiên tướng quân kiêm thái thú Nam Quận, cho ông hưởng thực ấp ở các huyện Hạ Tiêu, Hán Xương, Lưu Dương và Châu Lăng. Chu Du đóng quân ở huyện Giang Lăng thuộc Nam Quận.

Trong lúc quân Ngô khổ chiến với quân Tào thì Lưu Bị cũng tranh thủ giành đất Kinh châu, chiếm được vài quận phía nam. Lưu Bị sau đó còn sang Ngô Quận gặp Tôn Quyền đề nghị cho mượn Nam quận, với danh nghĩa "mượn Kinh châu" để cùng chống Tào Tháo. Chu Du nghe tin bèn viết thư cho Tôn Quyền phản đối việc này. Ông đề nghị hãy giữ Lưu Bị lại, dùng mỹ nhân lung lạc, và ly cách với các mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi, điều hai tướng này đi chinh chiến để lợi dụng tài năng của họ.

Tuy nhiên Tôn Quyền lại theo chủ trương của Lỗ Túc, rất coi trọng liên minh với Lưu Bị để cùng chống Tào Tháo vẫn còn rất mạnh ở phía bắc nên không đồng tình với ý kiến của ông[12].

Đánh giá về mưu kế của Chu Du, các học giả Trung Quốc cho rằng: Giam lỏng Lưu Bị thì khả thi và cũng là một độc kế, nhưng lợi dụng Trương Phi và Quan Vũ phục vụ cho mình thì không thể thực hiện được và Chu Du không hiểu quan hệ gắn bó của 3 người Lưu Quan Trương tới mức nào[13].

Kế đó không thành, Chu Du lại nghĩ kế khác, đề nghị với Tôn Quyền:

Tào Tháo mới bị đại bại, không thể cử binh đánh ta. Đây là thời cơ tốt để ta mở rộng thế lực. Tôi xin cùng Phấn uy tướng quân Tôn Du đánh vào chiếm đất Thục, rồi diệt luôn Trương Lỗ. Sau đó lưu Tôn Du ở lại làm thanh thế, liên kết với Mã Siêu cùng chống Tào Tháo. Tôi sẽ trở về cùng ngài đánh chiếm Tương Dương, truy kích Tào Tháo, tiến lên phía bắc lấy trung nguyên.

Kế sách này của Chu Du được xem là có tầm nhìn xa trông rộng, được các nhà nghiên cứu đánh giá rất cao[14]. Bên ngoài là đối địch với Tào Tháo, bên trong là ngầm thanh toán Lưu Bị[15].

Tôn Quyền tán thành mưu kế của Chu Du. Ông quay về Giang Lăng gấp, chuẩn bị cho cuộc chiến.

Qua đời

Đang gấp rút chuẩn bị cuộc chiến thì Chu Du bị bệnh nặng ở Ba Khâu[16]. Biết mình không qua khỏi, Chu Du viết lại thư gửi Tôn Quyền, dặn lại 3 việc:

  1. Đề cử Lỗ Túc thay mình cầm quân
  2. Phải đề phòng Tào Tháo ở phía bắc ("Tào công phía bắc, biên cương không yên")
  3. Không thể quên nguy cơ từ Lưu Bị ("Lưu Bị ở nhờ khác nào nuôi hổ").

Rồi Chu Du qua đời, năm đó ông mới 36 tuổi. Tôn Quyền nghe tin ông mất cảm thấy như mất một cánh tay, tự mình mặc áo tang đến để tang ông[14]. Linh cữu Chu Du được chuyển về Ngô Quận, Tôn Quyền ra tận Vu Hồ nghênh đón.

Sau này Tôn Quyền xưng làm hoàng đế (năm 229), vẫn nhớ tới công lao gây dựng của Chu Du.

Tài năng âm nhạc

Chu Du có đầy đủ khí chất cao thượng, tài hoa. Ông rất chú ý  trau dồi nhân phẩm, giỏi trận mạc, am hiểu nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Ngay cả khi rượu đã 3 tuần, tức đã ngà ngà say, ông vẫn chỉ ra nốt nhạc đánh sai trong dàn nhạc cung đình. Vậy nên mới có chuyện người đương thời lưu truyền câu "khúc hữu ngộ, Chu Lang cố" (khi nốt nhạc đánh sai, Chu Lang liền ngó về phía đó). Một con người tài hoa như vậy, với âm nhạc mà còn thế, chắc chắn biết điều binh khiển tướng, nắm vững nghệ thuật tiến hành chiến tranh."[14].

Gia đình

Khoảng giữa năm 198 đến năm 199, Chu Du cùng Tôn Sách đánh chiếm Hoãn Thành thành, gặp được 2 cô con gái của Kiều công là Nhị Kiều. Chu Du lấy Tiểu Kiều (小喬) làm vợ, còn Tôn Sách lấy Đại Kiều (大喬). Khi đấy, Chu Du và Tôn Sách chỉ mới 24 tuổi, đều là nhân sĩ thành đạt, cho nên Tôn Sách nói với Chu Du rằng "hai người con gái của Kiều công tuy sắc nước hương trời, nhưng lấy được hai chúng ta làm chồng, chắc cũng mãn nguyện".

Chu Du có hai con trai và một con gái, tuy nhiên không rõ có phải do Tiểu Kiều sinh ra hay không:

  • Con trai lớn tên là Chu Tuần (周循); có cử chỉ và phong thái rất giống cha. Tôn Quyền rất mực yêu quý nên gả con gái là Tôn Lỗ Ban và phong chức Kị Đô Úy (騎都尉), nhưng ông chết sớm.
  • Con trai thứ tên Chu Dận (周胤); cưới vợ là người trong họ tộc của Tôn Quyền. Ông làm tới chức Hưng Nghiệp Đô Úy (興業都尉), chỉ huy 1000 quân tại thành Công An (公安). Năm 229, Tôn Quyền xưng đế và phong ông làm Đô Hương hầu (都鄉侯). Sau này, do phạm tội nên Chu Dận bị đày tới quận Lư Lăng. Năm 239, Gia Cát CẩnBộ Chất dâng biểu nhắc tới những công lao đóng góp ngày xưa của Chu Du, xin ân xá và phục hồi chức tước cho Chu Dận. Tôn Quyền miễn cưỡng đồng ý nhưng ông cho rằng mức độ phạm tội của Chu Dận quá nặng, và nói rằng Chu Dận không biết hối hận. Tuy nhiên, sau nhiều lần thúc giục từ Gia Cát Cẩn, Bộ Chất, Chu NhiênToàn Tông, Tôn Quyền đã đồng ý, nhưng Chu Dận đã chết vì bệnh trong khi bị lưu đày.
  • Con gái của Chu Du lấy con trai lớn của Tôn Quyền là Thái tử Tôn Đăng, sinh được 3 người con.

Đánh giá

Chu Du là người có chí lớn, phong độ hơn người, nói năng đĩnh đạc. Ông đối đãi với mọi người rất khiêm tốn, lễ phép và thường lấy đức để thu phục mọi người. Thời Tôn Sách, Tôn Quyền còn trẻ và chỉ làm tướng quân, mọi người vẫn thiếu lễ độ nhưng Chu Du rất giữ phép tắc. Trình Phổ lớn tuổi hơn ông và tỏ ý không phục khi ông có chức vụ cao hơn, nhưng Chu Du không câu chấp, bỏ qua lỗi của Trình Phổ khiến Trình Phổ rất khâm phục.

Không chỉ Tôn Quyền, cả Lưu Bị rất khâm phục tài năng của Chu Du. Lưu Bị nói về ông như sau[14]:

Công Cẩn văn vở sách lược, vạn người không bì kịp.
Trong lịch sử, Gia Cát Lượng chưa bao giờ chọc tức Chu Du, và Chu Du cũng  chưa bao giờ tức thổ huyết mà chết. Tam quốc chí  đánh giá rất cao về ông: "Cởi mở, khí phách hơn người". Người cùng thời cũng rất trân trọng ông.

Cái chết của Chu Du khiến Lưu Bị và Gia Cát Lượng bớt được áp lực lớn từ phía Đông Ngô, vì người kế tục ông là Lỗ Túc chủ trương hòa hiếu với Lưu Bị.

Trong nghệ thuật

Trong Tam Quốc diễn nghĩa

Chu Du là một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, xuất hiện từ hồi 15 đến hồi 56.

Việc Tưởng Cán đến dụ Chu Du ở hồi 45 được La Quán Trung gắn với trận Xích Bích, khi Tào Tháo mang đại quân áp sát biên giới Đông Ngô. Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng trong lần gặp Tưởng Cán, Chu Du còn lợi dụng Tưởng Cán đưa tin thất thiệt khiến Tào Tháo nghi ngờ giết 2 đô đốc thủy quân giỏi của Kinh châu mới về hàng là Trương Doãn và Sái Mạo, khiến quân Tào không còn tướng chỉ huy quân thủy giỏi. Kỳ thực, Tào Tháo sai Tưởng Cán đi dụ ông sau trận thua lớn ở Xích Bích[17].

Do lấy Thục Hán làm chính thống, La Quán Trung đã có nhiều tình tiết mô tả Chu Du sai khác với con người thật của ông trong lịch sử.

Vì muốn đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung đã hạ bớt vai trò của Chu Du trong trận Xích Bích. Các học giả sau này vạch ra sự vô lý của hồi 44: "Khổng Minh dùng kế khích Chu Du"[18]:

Khi 3 người Chu Du, Gia Cát Lượng và Lỗ Túc gặp nhau trong buổi đêm hôm đó đột nhiên Chu Du và Gia Cát Lượng tỏ ý muốn đầu hàng Tào, chỉ còn lại Lỗ Túc muốn chống Tào. Chu Du bị Gia Cát Lượng khích bác nguy cơ mất người vợ đẹp (Tiểu Kiều) về tay Tào Tháo nếu để thua quân Tào khiến ông nổi giận quyết tâm đánh họ Tào. Điều vô lý được chỉ ra là Chu Du vốn luôn được mô tả là người có ý định chủ chiến (phái diều hâu - đối nghịch với Trương Chiêu) từ đầu sau khi nhận lời ký thác của Tôn Bá Phù; Gia Cát Lượng thì một lòng một dạ sang Giang Đông bằng mọi giá phải kéo được Tôn Quyền ngả theo Lưu Bị để cứu Lưu Bị trong cơn nguy cấp, vì vậy không có lý gì tỏ thái độ vờ vĩnh với Chu và Lỗ. Tác giả Dịch Trung Thiên khi phân tích đoạn này coi đó là một màn kịch khôi hài của La Quán Trung, hình tượng cả ba nhân vật Chu Du, Gia Cát Lượng và Lỗ Túc đều khác xa thực tế. Hình ảnh Chu Du từ một con người nuôi chí lớn xây dựng cơ nghiệp Giang Đông phù họ Tôn, bắc phạt họ Tào trở thành một người hăng máu đánh trận Xích Bích chỉ vì ghen tuông.

Ngoài ra, trong trận Xích Bích, La Quán Trung còn kể việc Chu Du muốn nổi lửa đốt thủy trại quân Tào phải nhờ có Gia Cát Lượng cầu gió đông.

Sau trận Xích Bích, Chu Du trở thành người nhọc công chiến đấu để Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị nẫng tay trên mất 3 quận Kinh châu khiến ông uất quá thổ huyết.

Những tình tiết Chu Du 3 lần bị Gia Cát Lượng chọc tức dẫn tới cái chết của ông đều là hư cấu của La Quán Trung. Ông bị La Quán Trung mô tả là người lòng dạ hẹp hòi, có tính đố kỵ. Ngay trước khi nổi lửa ở Xích Bích, Chu Du đã có ý định trừ khử Gia Cát Lượng nhưng không thành. Trước khi chết, Chu Du uất hận than: "Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng?" Trong bộ "Tướng soái cổ đại Trung Quốc" của các tác giả Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Tuyết và Dương Hiệu Xuân có ghi: "đó là lời lẽ của nhà văn, hoàn toàn không đáng tin cậy"[19].

Phim ảnh

Nhân vật Chu Du trên phim ảnh Trung Quốc xuất hiện trong các bộ phim Tam Quốc diễn nghĩaĐại chiến Xích Bích. Trong phim Tam Quốc diễn nghĩa, vai Chu Du do diễn viên Hồng Vũ Trụ đóng. Nhân vật Chu Du trong phim Đại chiến Xích Bích do diễn viên Lương Triều Vỹ thể hiện.

Thơ ca

Chu Du là nhân vật tài hoa, có cá tính đậm nên thường được các thi nhân đời sau nhắc lại, tên của ông hay gắn với trận đại chiến Xích Bích:

  • Đỗ Mục trong bài Xích Bích hoài cổ có 2 câu nổi tiếng:
Đông phong bất dữ Chu Lang tiện
Đồng Tước xuân thâm toả nhị kiều

Nghĩa là:

Gió đông không giúp Chu Lang
Thì đài Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
  • Tô Thức thời Tống, trong bài từ nổi tiếng điệu Niệm nô kiều có nhắc đến Chu Du:
Đại giang đông khứ,
Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.
Cổ luỹ tây biên,
Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích

Nghĩa là: Sông lớn chảy về Đông, cuốn đi hết thảy nhân vật phong lưu ngàn thuở, thành lớn ở phía Tây người bảo đó là Tam Quốc, Chu Du, Xích Bích.

  • Tản Đà trong bài hát nói Hỏi gió cũng nói về Chu Lang:
Thử thị Đà Giang, phi Xích Bích
Dã vô Gia Cát dữ Chu Lang!
Nghĩa là:
Đây là sông Đà, không phải Xích Bích
Không có Gia Cát với Chu Lang.

Xem thêm

Tham khảo

  • Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng
  • Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc, Nhà xuất bản Đà Nẵng
  • Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2006), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nhà xuất bản Lao động.
  • Dịch Trung Thiên (2010), Phẩm Tam Quốc, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
  • Trần Văn Đức (2008), Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Nhà xuất bản Văn học

Chú thích

  1. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 754
  2. Huyện Xuân Cốc phía tây bắc huyện Phồn Xương, tỉnh An Huy hiện nay
  3. Chức Thái thú Giang Hạ chỉ có nghĩa tượng trưng vì quận Giang Hạ vẫn đang trong tay Hoàng Tổ
  4. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 152. Trước kia Tôn Sách dưới quyền Viên Thuật, Thuật sai Sách đi đánh Lư Giang, hẹn đánh được sẽ cho làm Thái thú quận đó. Nhưng khi Tôn Sách đánh chiếm được quận Lư Giang từ tay Lục Khang (người cùng họ với Lục Tốn sau này), thì Viên Thuật nuốt lời hứa, cho Lưu Huân làm Thái thú. Sau việc Lưu Huân chặn giết Trương Huân và Dương Hoằng, Tôn Sách càng thêm thù Lưu Huân
  5. Kiến Xương thuộc Giang Tây
  6. Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 154
  7. Quận Lư Lăng do Tôn Sách tách một phần quận Dự Chương ra thành lập mới
  8. 8,0 8,1 Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 178
  9. 9,0 9,1 Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 758
  10. Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tập 2, tr 395. Tác giả căn cứ theo Tư trị thông giám.
  11. Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tập 2, tr 396
  12. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 765
  13. Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 142-143
  14. 14,0 14,1 14,2 14,3 Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 766
  15. Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tr 145
  16. Thị trấn Nhạc Dương, Hồ Nam hiện nay
  17. Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tập 2, tr 395.
  18. Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tập 1, tr 409-412
  19. Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 767

Template:Nhân vật Tam Quốc

Thể loại:Sinh năm 175 Thể loại:Mất 210 Thể loại:Người An Huy Thể loại:Nhân vật quân sự Đông Ngô