Clorofom
Template:Chembox new Clorofom, hay còn gọi là triclomêtan và mêtyl triclorua, và một hợp chất hoá học thuộc nhóm trihalomêtan có công thức CHCl3. Nó không cháy trong không khí, trừ khi tạo thành hỗn hợp với các chất dễ bắt cháy hơn. Người ta sử dụng clorofom làm chất phản ứng và dung môi. Clorofom còn là một chất độc với môi trường.
Contents
Lịch sử
Tháng 7 năm 1831, nhà vật lý người Mỹ Samuel Guthrie[1] và vài tháng sau đến lượt các nhà hoá học người Pháp Eugène Soubeiran[2] và người Đức Justus von Liebig[3] đã độc lập tìm ra clorofom. Cả ba đều tìm thấy clorofom qua phản ứng halofom. Soubeiran cho bột tẩy clo (canxi hypoclorit) tác dụng với aceton (2-propanon) cũng như với êtanol để điều chế clorofom. Năm 1834, Jean-Baptiste Dumas đã đặt tên và khảo sát hóa học clorofom.[4]
Năm 1847, bác sĩ sản khoa James Young Simpson ở Edinburgh lần đầu sử dụng clorofom là chất gây mê chính cho quá trình đỡ đẻ. Sau đó người ta sử dụng clorofom cho phẫu thuật trên toàn châu Âu. Đầu thế kỷ 20, tại Hoa Kỳ, clorofom thay thế ete làm chất gây mê. Tuy nhiên, người ta nhanh chóng cấm sử dụng vì tính độc của nó, đặc biệt là khả năng gây ra chứng loạn nhịp tim chết người.
Điều chế
Trong công nghiệp, người ta điều chế clorofom bằng đốt nóng hỗn hợp clo và clomêtan hay mêtan. Ở nhiệt độ 400-500 °C, phản ứng halogen hóa gốc tự do diễn ra, chuyển mêtan hay clomêtan dần dần thành các hợp chất clo hóa.
Tiếp tục phản ứng clo hóa, clorofom chuyển thành CCl4:
- CHCl3 + Cl2 → CCl4 + HCl
Hỗn hợp sản phẩm sau phản ứng gồm 4 chất: clomêtan, diclomêtan, clorofom (triclomêtan), và cácbon tetraclorua, chúng tách ra qua quá trình chưng cất.
Ứng dụng
Ngày nay clorofom sử dụng chủ yếu để tổng hợp chất làm lạnh R-22 cho máy điều hòa không khí. Tuy nhiên, vì R-22 gây ra sự suy giảm ozon nên clorofom gần như ít sử dụng cho mục đích này.
Gây mê
Từ giữa thế kỷ 18, clorofom chủ yếu sử dụng làm chất gây mê. Hơi clorofom ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương của người bệnh, gây ra chóng mặt, mỏi mệt và ngất, cho phép bác sĩ phẫu thuật.
Làm dung môi
Clorofom là một dung môi phổ biến vì nó khá trơ, trộn hợp với hầu hết các chất lỏng hữu cơ, và dễ bay hơi. Trong công nghiệp dược phẩm, người ta sử dụng clorofom làm dung môi để sản xuất thuốc nhuộm và thuốc trừ sâu. Clorofom chứa dơtơri (hydro nặng), CDCl3, là dung môi phổ biến cho phương pháp đo phổ cộng hưởng từ hạt nhân.
Xem thêm
- Haloankan
- Halomêtan
- Cloromêtan
- Dicloromêtan
- Cacbon tetraclorua (Têtracloromêtan)
- Florofom
- Bromofom
- Iotofom
Chú thích
- ↑ Samuel Guthrie (1832). Am. J. Sci. and Arts. 21: 64.
- ↑ Eugène Soubeiran (1831). Ann. Chim. 48: 131.
- ↑ Justus Liebig (1832). "Ueber die Verbindungen, welche durch die Einwirkung des Chlors auf Alkohol, Aether, ölbildendes Gas und Essiggeist entstehen". Annalen der Pharmacie. 1 (2): 182–230. doi:10.1002/jlac.18320010203.
- ↑ Jean-Baptiste Dumas (1834). "Untersuchung über die Wirkung des Chlors auf den Alkohol". Annalen der Pharmacie. 107 (41): 650–656. doi:10.1002/andp.18341074103.
Liên kết ngoài
- Lịch sử chất gây mê clorofom Template:En
- Dữ liệu về chlorofom và tricloromêtan tại cơ quan Kiểm soát chất ô nhiễm Hoa Kỳ Template:En
Thể loại:Clorua hữu cơ Thể loại:Chất gây mê Thể loại:Chất ô nhiễm không khí Thể loại:Chất gây ung thư Nhóm 2B IARC Thể loại:Dung môi halogen