Hậu Lộc

Template:Bài cùng tên Template:Coor title dms Template:Thông tin đơn vị hành chính Việt Nam Hậu Lộc là một huyện ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 25 km về phía đông bắc; giáp huyện Nga Sơn, Hà Trung về phía bắc, Hoằng Hóa về phía tâynam; phía đông giáp với Biển Đông.

Điều kiện tự nhiên

nhỏ|300px|phải|Bờ biển Diêm Phố, xã Ngư Lộc, Hậu Lộc Hậu Lộc có đầy đủ ba dạng địa hình, từ đồng bằng thuộc các xã Lộc Tân, Thịnh Lộc, Xuân Lộc, Hoa Lộc, Phú Lộc..., đến vùng đồi núi thuộc các xã Triệu Lộc, Tiến Lộc, Thành Lộc, Châu Lộc, Đại Lộc, Đồng Lộc... và ven biển là các xã Hòa Lộc, Ngư Lộc, Hải Lộc, Minh Lộc, Hưng lộc, Đa Lộc.

Huyện có hệ thống sông đào khá dày đặc. Hằng năm cung cấp nước tưới cho nông nghiệp và thoát vào mùa mưa. Do vậy, tình trạng hạn hán và ngập lụt ít khi xảy ra[citation needed]. Tuy nhiên, cơn bão số 7 năm 2005 và số 5 năm 2007 đã tàn phá nặng nề kinh tế và có nguy cơ vỡ đê ở một số xã của huyện[1]. Hậu Lộc có khí hậu đặc trưng của vùng bắc Trung Bộ Việt Nam. Trời thường khá lạnh vào mùa đông; mùa hè, nhiệt độ có thể lên tới 37-38 °C[2].

Lịch sử phát triển

Địa danh lịch sử

Thời kỳ các Vua Hùng dựng nước đất Hậu Lộc là vùng đất của người bộ lạc Dư Phát, trực thuộc bộ tộc Cửu Chân.

Thời kỳ An Dương Vương, Triệu Đà: phân cấp hành chính vẫn phụ thuộc và địa bàn cư trú của bộ lạc với sự quản lý cục bộ địa phương của các lạc tướng Lạc hầu. Đất Hậu Lộc vẫn thuộc bộ lạc Dư Phát, vùng đất này kéo dài từ bắc Lạch Trường cho tới phía tây Hà Trung và cả vùng đất cổ của Nga Sơn. Dư Phát thuộc vùng Cửu Chân.

Thời kì Bắc thuộc: Cho tới năm 106 TCN, thuộc quyền quản lý của Nhà Hán. Hán Vũ Đế bắt đầu phân chia thành các huyện dưới quận. Hậu Lộc vẫn mang tên cũ thành huyện Dư Phát, quận Cửu Chân.

Năm 46 TCN (Bắc thuộc, đời vua Hán Nguyên Đế năm thứ 3), bỏ huyện Dư Phát, kiêm nhiệm trực tiếp vào quận Cửu Chân[3].

Đời thuộc Tấn, thuộc Tống, thuộc Nam Tề, thuộc Lương: Như cũ.

Năm 607 (thuộc đời Tùy Dạng Đế, năm Đại Nghiệp thứ 3) thuộc huyện Nhật Nam[4].

Năm 622 (thuộc đời Đường Cao Tổ, năm Vũ Đức thứ 5): thuộc huyện Nhật Nam.

Thời kì nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê: thuộc huyện Nhật Nam.

Nhà Lý, trực thuộc trại/ phủ/ lộ trị Thanh Hóa.

Nhà Trần là huyện Thống Bình thuộc châu Ái.

Vị trí huyện Hậu Lộc trên bản đồ tỉnh Thanh Hóa

Năm 1407 (thời kỳ thuộc Minh), Minh Thành Tổ đổi tên đất Thống Bình thành huyện Thống Ninh.

Năm 1415 (thuộc Minh), sáp nhập với huyện Hà Trung.

Năm 1428, Lê Thái Tổ lên ngôi, chia huyện lại như cũ, đặt là Thuần Hựu.

Năm 1673, do kỵ húy vua Lê Chân Tông (Lê Duy Hựu) lại đổi tên đất thành huyện Thuần Lộc.

Năm 1802, Nguyễn Gia Long đổi tên thành huyện Phong Lộc.

Năm 1821, Nguyễn Minh Mệnh đổi tên huyện thành Hậu Lộc, và tên gọi này tồn tại cho đến ngày nay.

Năm 1837, Nguyễn Minh Mệnh thành lập huyện Mỹ Hoá trên cơ sở 4 tổng cắt ra từ Hậu Lộc và Hoằng Hoá: Đại Lý (nay gồm cac xã: Đại Lộc, Đồng Lộc, Triệu Lộc, Châu Lộc), Dương Thủy (nay gồm các xã: Hoằng Xuyên, Hoằng Khê, Hoằng Cát, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ, Hoằng Phú, Hoằng Quý và một phần thị trấn Tào Xuyên), Lỗ Hương (nay gồm các xã: Hoằng Hợp, Hoằng Khánh, Hoằng Xuân, Hoằng Phượng, Hoằng Giang), Dương Sơn (nay gồm các xã: Hoằng Lương, Hoằng Sơn, Hoằng Trinh, Hoằng Trung, Hoằng Kim). Tức là huyện Hậu Lộc chỉ còn vùng đất như ngày nay trừ đi các xã Đại Lộc, Đồng Lộc, Triệu Lộc, Châu Lộc.

Năm 1850 kiêm lý toàn bộ huyện Mỹ Hoá vào huyện Hoằng Hoá.

Năm 1877 Nguyễn Tự Đức lại cắt phần đất tổng Đại Lý (nay là các xã: Đại Lộc, Đồng Lộc, Triệu Lộc, Châu Lộc) về cho Hậu Lộc. Ranh giới tự nhiên Hậu Lộc ổn định cho tới ngày nay.

Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, châu, quận, gọi chung là huyện. Huyện Hậu Lộc khi đó gồm có 10 xã: Đại Lý, Đông Thành, Liên Cừ, Liên Thịnh, Long Thịnh, Phú Thịnh, Thuần Lộc, Trường Xuân, Uy Thống, Vạn Lộc.

Năm 1954, chia 10 xã cũ thành 26 xã mới với tiền tố hoặc hậu tố là "Lộc": Cầu Lộc, Châu Lộc, Đa Lộc, Đại Lộc, Đồng Lộc, Hải Lộc, Hoa Lộc, Hòa Lộc, Hưng Lộc, Liên Lộc, Lộc Sơn, Lộc Tân, Minh Lộc, Mỹ Lộc, Ngư Lộc, Phong Lộc, Phú Lộc, Quang Lộc, Thành Lộc, Thịnh Lộc, Thuần Lộc, Tiến Lộc, Triệu Lộc, Tuy Lộc, Văn Lộc, Xuân Lộc và thị trấn Hậu Lộc, giữ ổn định đến nay.

Truyền thống lịch sử

Người Hậu Lộc là chủ nhân của văn hóa Cồn Chân Tiên thời kỳ đồ đá đồng (khoảng 5.000 tới 3.500 năm TCN)[citation needed], đây là nơi cư trú lâu đời của người Việt cổ. Thời Nhà Lý, Hậu Lộc được chọn làm trung tâm hành chính của quận Cửu Chân (tên cũ của tỉnh Thanh Hóa).

Trên địa bàn huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc như di chỉ khảo cổ học văn hóa Hoa Lộc, khu di tích lịch sử văn hóa đền Bà Triệu, Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (di tích quốc gia), Chùa Cam Lộ, Chùa Vich, Cụm Di tích Nghè Diêm Phố[2], Chùa Ngọc Đới - xã Tuy Lộc, Nghè Vích - Hải Lộc, Đền thờ Lê Doãn Giai. Có thể kể đến các địa danh nổi tiếng như cửa biển Lạch Trường, cụm thắng cảnh đền Hàn Sơn (bao gồm Đền Mẫu, đền Cô Tám, đền Cô Đôi) thuộc làng Phong Mục xã Châu Lộc hay Hòn Nẹ, địa danh đã đi vào bài thơ nổi tiếng "Mẹ Tơm" của Tố Hữu.

Hậu Lộc cũng là vùng đất sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc, văn sĩ và các nhà hoạt động chính trị xã hội như: Lê Doãn Giai (Đông các đại học sĩ), Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Lê Hữu Lập; Đinh Chương Dương; Nguyễn Chí Hiền...

Đây là quê hương của ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. phải|nhỏ|300px|Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, xã Văn Lộc, Hậu Lộc

Tổ chức hành chính

Hậu Lộc bao gồm 1 thị trấn Hậu Lộc và 26 xã: Cầu Lộc, Châu Lộc, Đa Lộc, Đại Lộc, Đồng Lộc, Hải Lộc, Hoa Lộc, Hòa Lộc, Hưng Lộc, Liên Lộc, Lộc Sơn, Lộc Tân, Minh Lộc, Mỹ Lộc, Ngư Lộc, Phong Lộc, Phú Lộc, Quang Lộc, Thành Lộc, Thịnh Lộc, Thuần Lộc, Tiến Lộc, Triệu Lộc, Tuy Lộc, Văn Lộc, Xuân Lộc. Trụ sở huyện đặt tại thị trấn Hậu Lộc.

Điều kiện kinh tế-xã hội

Kinh tế

Theo số liệu điều tra 01/04/2009, toàn huyện có tất cả 163.971 người[5]

Giá trị tổng sản phẩm GDP năm 2005 đạt 755 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm(2000-2005) đạt 9,6%.

Cơ cấu kinh tế năm 2005. Nông–Lâm-Ngư nghiệp: 55,0%; Công nghiệp–Tiểu thủ công nghiệp–Xây dựng (CN-TTCS-XD): 14,2%; Thương mại – Dịch vụ: 30,8%[6]

Giáo dục và Đào tạo

Huyện Hậu Lộc có tất cả năm trường Trung học phổ thông và một Trung tâm giáo dục thường xuyên, mỗi xã đều có ít nhất một trường Trung học cơ sở và một trường Tiểu học cơ sở. Các trường đang không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.

Các trường Trung học phổ thông là Trung học phổ thông Hậu Lộc 1, Trung học phổ thông Hậu Lộc 2, THPT Hậu Lộc 3, Trường THPT Hậu Lộc 4, Trung học phổ thông Đinh Chương Dương.

Đặc sản của huyện

Đặc sản truyền thống: Mắm tôm, moi hấp ăn với khế chua Ngư Lộc, con dắt Hòa Lộc, con phi Hải lộc & phi sông trà khúc. Rượu Chi Nê (xã Cầu Lộc)

Hình ảnh

Chú thích

  1. Tạp trí thi đua-khen thưởng: Hậu Lộc với phong trào trồng rừng tránh bão
  2. 2,0 2,1 http://www.hauloc.gov.vn/?show=intro&ic=2&list=7_8
  3. Trang 3, Đại Nam nhất thống chí - tỉnh Thanh Hóa tập thượng - phiên dịch Á Nam Trần Tuấn Khải. Nha văn hóa Bộ quốc gia giáo dục Sài Gòn xuất bản 1960
  4. Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 89
  5. http://www.hauloc.gov.vn/?show=viewtt&ic=2&list=7_10&id=87
  6. Hậu Lộc

Tham khảo

  • Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội, (1973).
  • Đất nước Việt Nam qua các đời. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Đào Duy Anh (1964).
  • Tên làng xã Thanh Hoá, tập I. Thanh Hoá: Nhà xuất bản Thanh Hoá. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2000).
  • Tên làng xã Thanh Hoá, tập II. Thanh Hoá: Nhà xuất bản Thanh Hoá. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2001

Template:Huyện Hậu Lộc Template:Các đơn vị hành chính Thanh Hóa

Thể loại:Huyện duyên hải Việt Nam Thể loại:Huyện Thanh Hóa Thể loại:Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân