Minh Thần Tông
Template:Thông tin nhân vật hoàng gia
Minh Thần Tông (chữ Hán: 明神宗, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay Vạn Lịch Đế (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì trong 48 năm, lâu dài nhất trong các vị Hoàng đế nhà Minh và triều đại của ông cũng chứng kiến sự suy tàn dần dần của nhà Minh.
Thuở nhỏ khi mới lên ngôi, ông được Hiếu Định thái hậu và Thái sư Trương Cư Chính nhiếp chính, tuy nhiên trong thời gian này ông luôn lo sợ bị mẹ phế bỏ để đưa người em trai lên thay mỗi khi phạm lỗi. Sau cái chết của Trương Cư Chính, Vạn Lịch Đế bắt đầu tự mình chấp chính, sức mạnh của đế quốc vẫn tiếp tục phát triển (Vạn Lịch trung hưng), nhưng sau 18 năm ông bắt đầu chán nản và lao vào cuộc sống trụy lạc xa hoa, hoang dâm vô độ trong 20 năm cuối đời, thậm chí từ chối lên triều để điều hành công việc của đất nước (Vạn Lịch đãi chính).
Lối sống này giống như của ông nội ông, Minh Thế Tông Gia Tĩnh hoàng đế, người đã từ bỏ trách nhiệm với đất nước để đi luyện đan dược trường sinh. Chính lối sống đó đã hủy hoại hệ thống cai trị của nhà Minh và đặt gánh nặng lên quốc khố và đời sống kinh tế của người dân, khi các cuộc nổi loạn của nông dân bắt đầu diễn ra và dẫn đến sự suy vong của nhà Minh.
Contents
Tiểu sử
Thần Tông hoàng đế tên thật là Chu Dực Quân (朱翊鈞), sinh vào ngày 4 tháng 9, năm 1563 tại Tử Cấm Thành. Ông là con trai thứ ba của Minh Mục Tông Chu Tái Hậu, mẹ ông là Hiếu Định hoàng hậu Lý thị, người Thông Châu, vào hầu Mục Tông khi còn là Dụ vương với thân phận thị nữ của Hiếu An hoàng hậu.
Năm 1568, 2 năm sau khi Minh Mục Tông lên ngôi, Chu Dực Quân được phong làm Hoàng thái tử.
Năm 1572, ngày 5 tháng 7, Minh Mục Tông chết. Thái tử Chu Dực Quân mới chưa đầy 10 tuổi được lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Vạn Lịch (萬曆), Hoàng thái hậu Lý thị dạy bảo và phụ chính.
Trung thần Cao Củng thấy vậy liền than rằng:"Tại sao lại đưa một thằng nhóc 10 tuổi lên trị vì thiên hạ ?". Thật ra, Cao Củng nói vậy vì quá lo lắng cho xã tắc triều Minh và sợ một công việc khó khăn sẽ đè nặng hết lên đầu của thái tử như Chu Dực Quân chứ không có ý gì khác. Thái giám Phùng Bảo đem chuyện này nói lại với tân hoàng đế Vạn Lịch thì nhà vua rất tức giận, cho là Cao Củng có ý chống đối mình làm vua nên định xử phạt Cao Củng. Cao Củng thấy vậy liền liệt kê ra những bậc hoàng đế trước đây đã giết nhầm người tài dẫn đến quốc gia suy yếu rồi sụp đổ. Nhưng Vạn Lịch còn quá nhỏ, không biết phân biệt phải trái nên vẫn giữ nguyên án phạt tử hình cho Cao Củng. Đến ngày thi hành án tử hình thì Cao Củng lại giả vờ bị điên nhưng vẫn bị Vạn Lịch Đế đuổi về quê.
Sau khi Cao Củng đi rồi, Vạn Lịch cũng chẳng được yên thân khi lúc trước khi chết, Mục Tông Long Khánh đế còn giao việc phò tá Vạn Lịch cho vị quan thanh liêm là Trương Cư Chính. Trương Cư Chính là vị thầy rất nghiêm khắc, Vạn Lịch hồi đó cũng khá nể sợ nên đành ăn nói lễ phép với ông ta và tạm thời kiềm chế tật xấu của mình.
Khi Vạn Lịch phạm lỗi, Trương Cư Chính nhân danh Thái hậu bắt Hoàng đế phải quỳ mấy canh giờ trước bài vị tổ tông đại Minh. Bản thân Trương Cư Chính không cho người khác ăn hối lộ, nhưng chính ông ta lại là người ăn hối lộ nhiều nhất trong triều. Khi phụ thân Trương Cư Chính mất, ông ta ngồi kiệu 8 người khiêng về quê, trên đường lại ăn uống xa xỉ tiêu tốn cả ngàn lượng bạc. Khi Trương Cư Chính muốn sửa phủ đệ, Vạn Lịch còn ít tuổi nên tưởng Trương Cư Chính là quan thanh liêm nên cố gắng tìm 1000 lượng bạc tặng thầy, nhưng sau đó Hoàng đế được biết phủ đệ của Trương Các lão (cách gọi người đứng đầu nội các) tiêu tốn mấy vạn lượng bạc, Hoàng đế tuổi nhỏ nên cảm thấy mình bị Trương Cư Chính lừa dối. Những việc này đã làm Vạn Lịch có ác cảm với Trương Cư Chính.
Tuy nhiên Trương Cư Chính vẫn được Hiếu Định Lý Thái hậu trọng dụng, việc triều chánh diễn ra tốt đẹp, đây gọi là thời kỳ Vạn Lịch trung hưng (萬曆中興). Thực tế trong thời gian này, người đứng đầu đất nước thật sự là Trương Cư Chính, chứ không phải tiểu hoàng đế Vạn Lịch.
Vạn Lịch trung hưng
nhỏ|phải|200px|Minh Thần Tông Vạn Lịch hoàng đế Chu Dực Quân
Từ năm 1572 đến năm 1582 là thời kì hưng thịnh của triều đại Vạn Lịch. Kho lương tích trữ đủ dùng trong hơn 10 năm, quốc khố có hơn 400 vạn lượng vàng. Năm 1573, Thái sư Trương Cư Chính một mặt giảm bớt quan lại vô dụng, mặt khác bắt đầu kiểm soát chi phí hoàng thất, bởi vậy đã mang lại nhiều hiệu quả nhất định.
Năm 1577, Trương Cư Chính đề xuất tiến hành đo đạc đất đai trong cả nước, tăng cường sản xuất. Tới năm 1581, Trương Cư Chính hoàn tất việc đo đạc đất đai, tổng số đất đo đạc là 900 vạn khoảnh, nhiều hơn 800 vạn khoảnh thời Minh Hiếu Tông Hoằng Trị. Đồng thời Trương Cư Chính còn trọng dụng hiền tài như Thích Kế Quang, Lý Thành Lương và Vương Sùng Cổ và tìm nhiều chính sách để vỗ về với nhà Bắc Nguyên ở Mông Cổ. Vạn Lịch khen Trương Cư Chính biết dùng người thỏa đáng.
Thời gian 10 năm đầu thời Vạn Lịch, nhà Minh được chứng kiến sự phát triển về quân sự và thịnh vượng về kinh tế trong hơn cả trăm năm từ thời Vĩnh Lạc của Minh Thành Tổ và thời Nhân Tuyên chi trị của Minh Nhân Tông và Minh Tuyên Tông.
Năm 1582, Trương Cư Chính lâm bệnh mà qua đời. Ông ta giao lại quyền triều chính cho Vạn Lịch. Nhưng Vạn Lịch hoàn toàn khác xa lúc còn nhỏ. Ngay sau khi lên nắm quyền, Vạn Lịch trở nên ngang ngược, hống hách. Vì không muốn chấp nhận số phận của mình trong thời gian sống với Trương Cư Chính, Vạn Lịch rất căm giận ông ta và đã sai người về tận quê nhà của Trương Cư Chính bắt và giết hết họ hàng, anh em của Trương Cư Chính, đồng thời xóa bỏ hết những cải cách của Trương Cư Chính. Hành động này của Vạn Lịch được các sử gia đời sau cho là trò bất nghĩa với thầy.
Vạn Lịch chấp chính
Sau khi Trương Cư Chính mất rồi, Vạn Lịch quyết định nắm trọn quyền hành điều khiển đất nước, trong thời gian đầu tự mình chấp chính, Vạn Lịch chứng tỏ được mình là một hoàng đế có thẩm quyền và siêng năng. Nhìn chung, thời gian này (1582 - 1600) đất nước vẫn phát triển về kinh tế và hùng mạnh về quân sự. Khác với thời gian 20 năm cuối đời, lúc này Vạn Lịch vẫn tham dự các buổi thiết triều sáng và lắng nghe, thảo luận các vấn đề của đất nước.
Trong thời gian 18 năm tự mình chấp chính, Vạn Lịch hoàng đế đã thực hiện 3 chiến dịch quân sự lớn một cách thành công:
- Phòng thủ trước sự tấn công của Mông Cổ: Ở biên giới phía bắc, một cuộc phản loạn nổ ra và thủ lĩnh phản quân đã kết minh với quân Mông Cổ, đề nghị làm nội ứng cho quân Mông Cổ và yêu cầu quân Mông Cổ tấn công nhà Minh. Vạn Lịch cử Lý Thành Lương và các con đi dẹp, đánh lùi được quân Mông Cổ và diệt được phản loạn.
- Chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên (1592-1598) (hay Chiến tranh Nhâm Thìn): Toyotomi Hideyoshi sau khi thống nhất Nhật Bản, bắt đầu có ý tưởng bành trướng ra ngoài nên quyết định xâm lược Trung Quốc. Ông cho 20 vạn quân tiến tới Triều Tiên và gửi thư tỏ ý muốn mượn đường đánh nhà Minh, tuy nhiên yêu cầu bị bác bỏ, Hideyoshi quyết định tấn công Triều Tiên để làm bàn đạp tiến vào lục địa. Cuộc chiến mở đầu bất lợi cho Triều Tiên, vì Triều Tiên đã lâu không quan tâm tới việc quân sự trong khi Nhật Bản vừa mới thống nhất và có thể sử dụng các chiến binh dũng mãnh nhất châu Á thời bấy giờ. Vua Triều Tiên gửi thư cầu cứu nhà Minh và được Vạn Lịch đáp trả với việc gửi quân tới Triều Tiên. Vạn Lịch cho thực hiện 3 nước đi chiến lược: đầu tiên, nhà vua gửi 3000 quân tiếp viện Triều Tiên; thứ 2, nếu người Triều Tiên tiến vào lãnh thổ nhà Minh, nhà vua sẽ cho họ chỗ trú ẩn; cuối cùng, nhà vua hạ lệnh cho khu vực Liêu Đông chuẩn bị phòng thủ cho các cuộc đổ bộ của quân Nhật. Hai trận đánh đầu tiên của quân Minh là những thất bại khi Lý Như Tùng bị áp đảo khi phải đối phó với 20 vạn quân Nhật. Vạn Lịch sau đó cho gửi 8 vạn quân tiếp viện, lần này đã thành công hơn khi đánh lui quân Nhật. Việc này buộc Hideyoshi phải rút quân và ký hòa ước có lợi cho nhà Minh. Năm 1596, quân Nhật một lần nữa xâm lược Triều Tiên. Tuy nhiên Hideyoshi chết cùng năm làm cho tướng lĩnh Nhật Bản mất ý chí chiến đấu. Cùng với các chiến thắng của đô đốc hải quân Triều Tiên Lý Thuấn Thần và sự sa lầy của lực lượng bộ binh ở lục địa, quân Nhật đồng ý ký hòa ước và rút quân. Cuộc chiến này tuy xác định vị trí bá chủ của nhà Minh ở khu vực Đông Á, nhưng nó đã tiêu hao gần hết những thành quả kinh tế đạt được trước đó trong triều Vạn Lịch.
- Cuộc nổi loạn của Dương Ứng Long: Lúc cuộc nổi loạn diễn ra, Vạn Lịch đang tập trung vào chiến tranh Triều Tiên nên chỉ cho 3000 quân đi dẹp, tuy nhiên đội quân này đã bị tiêu diệt và tướng cầm quân cũng bị giết. Sau khi kết thúc chiến tranh Triều Tiên, Vạn Lịch chuyển sự tập trung vào cuộc nổi loạn và cho một đội quân đông hơn đi dẹp. Lần này thì Dương Ứng Long thua trận và bị bắt về kinh đô.
Sau khi dẹp được Dương Ứng Long, Vạn Lịch bỏ hẳn việc nghe triều sáng và lui về hậu cung, việc này kéo dài đến hết thời trị vì của Vạn Lịch.
Vạn Lịch đãi chính
Thời gian 20 năm cuối đời, Vạn Lịch Đế triệt để xa lánh vai trò của mình trong triều đình, hay trên thực tế là bãi công. Hoàng đế không nghe triều buổi sáng, không xem tấu chương thậm chí không gặp thần tử. Ông cũng không thèm quan tâm đến việc bổ nhiệm nhân sự, việc này dẫn đến các chức vụ cao cấp của triều đình bị thiếu khuyết, ảnh hưởng đến đất nước. Tuy nhiên, Hoàng đế lại đặt sự tập trung vào việc kiến tạo lăng mộ cho bản thân, một lăng mộ nguy nga hùng tráng mà mất thập kỉ mới hoàn thành.
Năm 1614, sinh mẫu của Vạn Lịch Đế là Hiếu Định thái hậu Lý thị qua đời, không còn ai ngăn cản, Vạn Lịch Đế thả sức ăn chơi. Ông cho khôi phục những chức quan mà Trương Cư Chính đã bãi miễn trước đây. Vạn Lịch Đế tiếp tục cho trọng dụng hoạn quan để ăn chơi trác táng, tự vạch ra chế độ sinh hoạt cho riêng mình để tỏ ta uy lực của thiên triều, ai mà can gián đều bị khép tội phải chết. Vạn Lịch mỗi đêm sau buổi dự triều rất mệt mỏi nên đều về cung uống rượu say khướt đến khuya rồi đánh đập các cung nữ. Hoàng đế còn học hút thuốc lá, chơi hoa và chim.
Vì suốt ngày chỉ lo ăn chơi xa xỉ và háo sắc nên sức khỏe của Vạn Lịch Đế ngày một suy nhược, suốt ngày chỉ tiêu tiền cho hoang phí, quốc khố ngày càng cạn kiệt. Khởi nghĩa nông dân bắt đầu nổ ra, Vạn Lịch Đế thường cho những lực lượng rất lớn để đánh dẹp những cuộc khởi nghĩa nhỏ. Như vậy hoàng đế đã tự tiêu hao nhân lực của mình.
Có vài lý do để giải thích cho việc Vạn Lịch cố tình lãng quên trách nhiệm của mình khi làm Hoàng đế. Một trong số đó là việc bị tấn công về mặt đạo đức dựa trên tư tưởng Nho gia chính thống của quan lại. Một việc nữa là việc tranh chấp quyền thừa kế ngai vàng. Hoàng đế có sủng phi là Hoàng quý phi Trịnh thị, sinh ra được hoàng tử thứ 3 là Chu Thường Tuấn (朱常洵). Vạn Lịch Đế rất muốn lập người con này làm Hoàng thái tử, nhưng bị sự phản đối kịch liệt của quan lại những người mang tư tưởng Nho gia và lấy cớ tổ tông đặt ra quy củ lập trưởng không lập thứ.
Cuộc tranh chấp giữa hoàng đế và quan lại kéo dài 15 năm, cuối cùng vào năm 1601 Vạn Lịch đầu hàng, chấp nhận lập con trưởng Chu Thường Lạc (Minh Quang Tông sau này) làm Hoàng thái tử. Việc Vạn Lịch chán ghét con trưởng nên đối xử hà khắc với con, thậm chí ngay cả cháu nội mình là Chu Do Hiệu (Minh Hy Tông sau này).Vì thế khi lớn lên Chu Do Hiệu cũng không được học chữ, trở thành Hoàng đế mù chữ đã ảnh hưởng trực tiếp tới sự cai trị của nhà Minh.
Tuy không lập được con thứ làm Hoàng thái tử, nhưng sự sủng ái của Vạn Lịch Đế với Chu Thường Tuấn không giảm bớt, ông phong cho con làm Phúc vương, đất phong ở Lạc Dương, Hà Nam. Chu Thường Tuấn giống như cha mình, suốt ngày chỉ biết ăn chơi và vơ vét của cải nhân dân, đương thời nói rằng nhà Phúc vương còn giàu hơn cả quốc khố Đại Minh. Vì chỉ biết hưởng thụ nên người Phúc vương béo mập, di chuyển khó khăn. Tương truyền lúc Lý Tự Thành nổi dậy, Phúc vương vì quá to béo nên không chạy trốn nổi, bị quân khởi nghĩa bắt được, quân khởi nghĩa liền đem ông ta giết đi rồi lấy mỡ làm dầu đốt đèn, dùng mãi không hết. trái|nhỏ|Vương miện (mô phỏng) của Minh Thần Tông Vạn Lịch đế bắt đầu đi vào lối sống của người hiện đại, tiêu tiền như bùn rác. Quốc khố sạch trơn. Vạn Lịch đế cũng chứng kiến các nhà truyền đạo Thiên Chúa giáo đầu tiên ở Bắc Kinh, Matteo Ricci. Ông đã mời Ricci về Bắc Kinh ở, Ricci ở đó tới năm 1610 thì mất.
Chính vào lúc này ở đông bắc nhà Minh đã xuất hiện điều mà sau này gọi là sự trỗi dậy của người Mãn Châu. Năm 1616, nhà Hậu Kim tiêu diệt nhà Bắc Nguyên và sai sứ sang nhà Minh giao hảo, lúc đó Nỗ Nhĩ Cáp Xích phát hiện nhà Minh đã suy yếu nên kế hoạch tiêu diệt nhà Minh sắp được thực hiện. Nỗ Nhĩ Cáp Xích sau đó tuyên bố "Thất đại hận", trực tiếp cử quân tấn công nhà Minh. Vào lúc này, sau 20 năm triều đình không hoạt động, quân đội nhà Minh đã mất đi sự hùng mạnh và tính kỷ luật, trong khi đó, quân Nữ Chân tuy ít hơn nhưng lại là các chiến binh dũng mãnh và khát máu. Trong trận Sa Nhĩ Hử năm 1619, quân Minh điều 20 vạn quân cùng với quân của các nước chư hầu để chống lại quân xâm lược Nữ Chân chỉ có 6 vạn. Nỗ Nhĩ Cáp Xích đích thân chỉ huy 6 kỳ cùng 45,000 quân ở chính giữa, còn Đại Thiện và Hoàng Thái Cực mỗi người chỉ huy 1 kỳ và 7,500 quân ở 2 cánh. Sau 5 ngày giao chiến, quân Minh thua to, tử thương hơn 10 vạn người, 7 phần 10 lương thảo bị quân Hậu Kim cướp được. Sau trận đánh này, trong ngoài, từ nhà Minh đến các nước như Triều Tiên, Mông Cổ không ai không biết đến đại danh của Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Nhà Minh đã chẳng thể phục hồi sau thảm họa này.
Thời Vạn Lịch Đế trị vì, đã xuất hiện mầm mống liên quan tới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường bắt đầu đổi mới, khoa học kĩ thuật bắt đầu phát triển nhanh hơn. Chính những nhà tư sản mới nổi này vì muốn giành được địa vị cao hơn trong xã hội nên đã cấu kết với hệ thống quan liêu để nắm vững những đặc quyền về kinh tế, từ đó thâu tóm được quyền lực thực tế. Giao dịch này có thể hiểu là thương nhân được ngầm chấp nhận buôn lậu những mặt hàng cấm như muối, ngựa hay thậm chí là vũ khí, đổi lại những nguồn thuế phải nộp lên triều đình bây giờ trực tiếp chảy vào túi quan lại. Liên minh quan - thương này còn ra tay chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, khiến hàng triệu người mất nhà cửa, phải vào cảnh bán vợ bán con và lưu lạc tứ phương. Những việc này xảy ra rất trầm trọng ở những nơi như Thiểm Tây, Giang Nam. Việc này đã khiến nhà Minh vốn chỉ sống bằng thuế nông nghiệp đã nghèo nay lại càng nghèo hơn. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản mới chớm nở ở nhà Minh đã nhanh chóng bị dập tắt bởi vó ngựa Mãn Thanh. Khi quân Thanh vào quan, vì để dễ dàng cai trị lãnh thổ Trung Hoa nên nhà Thanh chấp nhận sử dụng lại các quan viên cũ nhà Minh cũng như sự hủ bại của họ, trên cơ bản nhà Thanh là vương triều chấp nhận quan lại tham nhũng chỉ miễn rằng không tạo phản. Nhưng nhà Thanh cũng nhận thức được sự nguy hiểm của mối liên minh quan - thương nên quyết định tàn sát và cướp bóc những người thuộc giai cấp tư sản mới nổi này vì họ không có địa vị và quyền lực cao trong xã hội. Những quan viên cũ của nhà Minh thấy vậy sợ hãi nên cũng giảm sự nhũng nhiễu, tăng cường làm việc để không phải bị tội. Nhờ vậy mà những năm đầu nhà Thanh duy trì được sự ổn định và có tiền tài để tiếp tục chinh chiến, thống nhất Trung Hoa.
Cuối đời ông, triều đình nhà Minh phải chứng kiến một vụ tai tiếng nữa. Năm 1615, một người đàn ông tên Trương Sái, chỉ có một cây côn gỗ trong tay thế mà đánh đuổi được thái giám canh gác cửa cung, sau đó xông vào Từ Khánh cung, rồi đến Đông cung của Thái tử. Trương bị bắt và ném vào thiên lao. Những lời khai ban đầu cho rằng Trương là kẻ điên, tuy nhiên sau đó Trương đã thú nhận mình được thuê bởi 2 thái giám phục vụ Trịnh Quý phi. Hai thái giám đã hứa sẽ thưởng cho Trương nếu thành công tấn công Thái tử, tuy nhiên việc lỡ ra nên liên lụy đến Trịnh thị. Được xem những bằng chứng buộc tội và vì tính nghiêm trọng của vụ án, Vạn Lịch vì muốn bảo toàn Trịnh thị nên đã tự mình xét án. Hoàng đế đổ hết trách nhiệm cho 2 thái giám, sau đó lôi họ ra chém cùng với Trương Sái. Tuy nhanh chóng được bưng bít, vụ án vẫn lọt ra ngoài để dân chúng bàn tán và trở thành một trong tam đại án nhà Minh.
Qua đời
Năm 1620, 9 tháng 4, Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu Vương Hỉ Thư qua đời vì bạo bệnh. Vạn Lịch Đế vì thế mà sinh phiền muộn, cử hành tang lễ long trọng cho Hoàng hậu. Đến ngày 18 tháng 8, Vạn Lịch Đế cũng chết ở tuổi 58, tại ngôi 48 năm.
Thái tử Chu Thường Lạc lên kế vị ngai vàng, tức Minh Quang Tông Thái Xương hoàng đế. Các con trai của Vạn Lịch Đế, ngoài những người chết non và Minh Quang Tông, những người còn sót lại đều bị quân Lý Tự Thành và quân Thanh giết cùng với người nhà khi Mãn Thanh nhập quan. Dòng dõi Phúc vương có Chu Do Tung chạy ra ngoài, lên ngôi hoàng đế nên vẫn giữ được huyết mạch nhà Minh.
Vạn Lịch Đế được tôn miếu hiệu là Thần Tông (神宗), thụy hiệu là Phạm Thiên Hợp Đạo Triết Túc Đôn Giản Quang Văn Chương Vũ An Nhân Chí Hiếu Hiển hoàng đế (範天合道哲肅敦簡光文章武安仁止孝顯皇帝), gọi tắt là Thần Tông Hiển hoàng đế (神宗顯皇帝). Ông được an táng ở Định Lăng (定陵) trong Minh Thập Tam Lăng.
Nhận xét
Nhiều sử gia Trung Quốc cho rằng triều đại Vạn Lịch là một trong những nguyên nhân đáng kể dẫn đến sự diệt vong của nhà MInh. Ông không thực hiện trách nhiệm của hoàng đế điều khiển triều đình, thay vào đó là giao đại quyền vào tay hoạn quan, những kẻ tự xây dựng thế lực riêng của mình. Những quan lại bất mãn với hoàng đế trung thành với Chu Hi và chống lại Vương Dương Minh đã thành lập đảng Đông Lâm, một tổ chức chính trị tin vào sự cương trực của các cá nhân và cố gây ảnh hưởng trong triều dựa trên những nguyên tắc khắt khe của đạo Khổng Mạnh. Tuy nhiên chính sự hủ bại và bảo thủ, tham công sợ việc, hay che mắt hoàng đế để tư lợi riêng, báo láo quân công của đảng Đông Lâm là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc nhà Minh bị lật đổ.
Thời Vạn Lịch còn phải đối mặt với các gánh nặng tài chính và áp lực quân sự, nhất là vào những năm cuối khi người Mãn Châu bắt đầu trỗi dậy và cướp phá dọc vùng biên giới phía bắc nhà Minh. Những sự tàn phá này cuối cùng đã dẫn đến sự diệt vong của nhà Minh và năm 1644. Người ta cho rằng nhà Minh mất không phải chỉ là lỗi của hoàng đế Sùng Trinh mà còn do sự bỏ bê trách nhiệm khi làm hoàng đế của Vạn Lịch.
Tuy nhiên, theo một cách nhìn tích cực hơn, việc hoàng đế Vạn Lịch đóng góp vào việc bảo vệ Triều Tiên trước quân Nhật đã giúp người dân ở 2 miền đất nước này yêu quý ông. Vào thời nay, người Hàn Quốc vẫn thể hiện sự tôn trọng của mình với Vạn Lịch.
Trên nhiều phương diện, hoàng đế Vạn Lịch vẫn giống với một số các hoàng đế khác trong lịch sử Trung Quốc, ban đầu rất thành công nhưng về cuối đời thì triều đại suy thoái, cuối cùng thì bị lật đổ, tiêu biểu là: Hán Vũ đế nhà Hán, Đường Cao Tông và Đường Huyền Tông nhà Đường, Tống Nhân Tông nhà Tống, Thanh Cao Tông Càn Long nhà Thanh và ông nội ông Minh Thế Tông.
Gia quyến
- Thân phụ: Minh Mục Tông Chu Tái Hậu.
- Đích mẫu: Hiếu An hoàng hậu Trần thị (孝安皇后陈氏, 1536 - 1596), người Thông Châu, cha là Cẩm y vệ Cố An bá Trần Cảnh Hành (固安伯陳景行). Bà trở thành Kế phi của Mục Tông sau khi Hiếu Ý Trang hoàng hậu qua đời. Dưới thời Vạn Lịch Đế, bà do là dích mẫu Hoàng hậu nên được tôn làm Nhân Thánh hoàng thái hậu (仁圣皇太后), ngự ở Từ Khánh cung. Không có con, bà rất được Vạn Lịch Đế cung phụng, tôn như mẹ ruột.
- Thân mẫu: Hiếu Định hoàng hậu Lý thị (孝定皇后李氏, 1540 - 1614), người Thông Châu, xuất thân bình dân, là thị nữ hồi môn của Hiếu An hoàng hậu khi bà trở thành Kế phi của Mục Tông từ khi còn là Dụ vương. Sau khi Mục Tông đăng cơ, bà trở thành Quý phi. Vạn Lịch Đế lên ngôi tấn tôn thành Từ Thánh hoàng thái hậu (慈圣皇太后), ngự ở Từ Ninh cung. Thái hậu giáo huấn Vạn Lịch Đế rất nghiêm, mỗi khi Hoàng đế sai phạm đều bắt quỳ rất lâu. Có lúc bà có ý định phế truất Vạn Lịch. Khi Hoàng đế cai trị còn nhỏ tuổi, bà quyết định tham chính.
- Hậu phi:
- Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu Vương thị (孝端顯皇后王氏, 1564 - 1620), tên Hỉ Thư (喜姐), người Chiết Giang, cha là Vĩnh Niên bá Vương Vĩ (永年伯王偉). Bà là vị Hoàng hậu chính vị duy nhất của Thần Tông, ở ngôi vị Hoàng hậu 42 năm, lâu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Bà qua đời gần như cùng lúc với Thần Tông, thọ 57 tuổi
- Hiếu Tĩnh hoàng hậu Vương thị (孝靖皇后王氏, 1565 - 1611), không rõ xuất thân, vốn là cung nhân của Từ Thánh hoàng thái hậu. Năm 1582, sắc phong làm Cung phi (恭妃), sau đó bà sinh ra Minh Quang Tông Chu Thường Lạc. Khi bà qua đời, được truy phong làm Ôn Túc hoàng quý phi (温肃皇贵妃). Sau khi Minh Quang Tông lên kế vị, dâng thụy hiệu Hiếu Tĩnh hoàng thái hậu (孝靖皇太后)
- Cung Khác Hoàng quý phi Trịnh thị (恭恪皇贵妃郑氏, 1565 - 1630), người Đại Hưng, Kinh Nam. Sơ phong Thục tần (淑嬪), dần phong lên Hoàng quý phi, là sủng phi của Vạn Lịch đế.
- Cung Thuận Hoàng quý phi Lý thị (恭順皇貴妃李氏, ? - 1597), không rõ gốc gác. Sinh hạ Huệ vương Chu Thường Nhuận và Quế Đoan vương Chu Thường Doanh rồi mất, đều được Vương Hoàng hậu nhận nuôi
- Tuyên Ý Chiêu phi Lưu thị (宣懿昭妃刘氏, 1557 - 1642), cha là Lưu Ứng Tiết (刘应节), được Thần Tông sủng ái, trong ngoài đều kính trọng
- Ôn Tĩnh Thuận phi Thường thị (溫靜順妃常氏, 1568 - 1594), người Sơn Đông, cha là Thường Giang (常江), mẹ là Cao thị (高氏), mang thai nhưng chết lưu
- Thanh Huệ Thuận phi Lý thị (清惠順妃李氏, ? - 1623), sinh hạ Vĩnh Tư vương Chu Thường Phổ và Thiên Thai Công chúa, tất cả đều chết khi còn rất nhỏ
- Đoan Tĩnh Vinh phi Vương thị (端靖榮妃王氏, khoảng 1560 - 1591), sơ phong An tần (安嫔), Vạn Lịch thập nhị niên (1584) phong Vinh phi, sinh Tĩnh Nhạc Công chúa chết non
- Trang Tĩnh Đức phi Hứa thị (莊靖德妃許氏, ? - 1602), không rõ gốc gác
- Đoan phi Chu thị (端妃周氏), sơ phong Đoan tần (端嬪), vì sinh Thuỵ vương Chu Thường Hạo nên dược phong làm phi. Cả hai mẹ con đều không được sủng ái, sau khi con trai bị giết, bà quay về quê nhà mà sống, thọ hơn 80 tuổi
- Hiền phi Ngụy thị (賢妃魏氏, 1567 - 1606), người Hàm Đan, cha là Nguỵ Chí (承志), mẹ là Kiều thị (乔氏), sơ phong Thận tần (慎嫔), qua đời truy phong Hiền phi
- Nghi phi Dương thị (宜妃楊氏, ? - 1581), cha là Dương Thần (杨臣), nhập cung năm 1578, mất sớm
- Hi phi Vương thị (僖妃王氏, ? - 1589), không rõ gốc gác
- Đức tần Lý thị (德嬪李氏, 1567 - 1628), người Khai Phong, Hà Nam, cha là Lý Thời Lương (李时亮), mẹ là Lôi thị (雷氏), sinh hạ 3 công chúa đều yểu mệnh
- Kính tần Thiệu thị (敬嬪邵氏, ? - 1606), người Dương Châu, cha là Thiệu Danh (邵名), mẹ là Tề thị (齐氏), thọ khoảng 40 tuổi
- Vĩ tần Cảnh thị (伟嬪耿氏, 1568 - 1589), cha là Cảnh Thái Hưởng (耿大享), mẹ là Vương thị (王氏), xuất thân là cung nữ
- Vinh tần Lý thị (榮嬪李氏, 1568 - 1626), cha là Lý Sơn (李山), một trong Cửu tần của Thần Tông
- Hòa tần Lương thị (和嬪梁氏, 1562 - 1643), cha là Lương Thận (梁慎), mẹ là Phan thị (潘氏)
- Thuận tần Trương thị (顺嫔张氏, ? - 1589), cha là Trương Trân (张榛), mẹ là Vương thị (王氏)
Hậu duệ
Hoàng tử
TT | Họ tên | Tước vị | Sinh | Mất | Mẹ | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | Chu Thường Lạc 朱常洛 |
Quang Tông Trinh hoàng đế 光宗贞皇帝 |
28 tháng 8, 1582 | 26 tháng 9 năm 1620 | Hiếu Tĩnh hoàng hậu | Đăng cơ năm 1620 Hoàng đế tại vị ngắn nhất trong lịch sử nhà Minh |
2 | Chu Thường Tự 朱常溆 |
Bân Ai vương 邠哀王 |
19 tháng 1, 1585 | 19 tháng 1, 1585 | Cung Khác Hoàng quý phi | Chết non |
3 | Chu Thường Tuân 朱常洵 |
Phúc Trung vương 福忠王 |
22 tháng 2, 1586 | 2 tháng 3 năm 1641 | Cung Khác Hoàng quý phi | Bị Lý Tự Thành giết hại Nhà Nam Minh truy tôn thành Minh Cung Tông (明恭宗) |
4 | Chu Thường Trị 朱常治 |
Nguyên Hoài vương 沅怀王 |
1587 | 1588 | Cung Khác Hoàng quý phi | Chết non |
5 | Chu Thường Hạo 朱常浩 |
Thuỵ vương 瑞王 |
1590 | 1644 | Chu Đoan phi | Bị Trương Hiến Trung giết hại Không thích lập gia đình, bản tính tham lam, thu nhiều thứ thuế khiến nhân dân bất mãn mà nổi dậy |
6 | Chu Thường Nhuận 朱常润 |
Huệ vương 惠王 |
1594 | tháng 1 năm 1647 | Cung Thuận Hoàng quý phi | Được Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu nuôi dưỡng Về sau bị giết |
7 | Chu Thường Doanh 朱常瀛 |
Quế Đoan vương 桂端王 |
1597 | 21 tháng 12 năm 1645 | Cung Thuận Hoàng quý phi | Vừa mới lọt lòng thì mẹ qua đời, được Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu nuôi dưỡng
Được truy tôn làm Minh Lễ Tông (明礼宗) |
8 | Chu Thường Phổ 朱常溥 |
Vĩnh Tư vương 永思王 |
1604 | 1606 | Lý Thuận phi | Chết yểu |
Hoàng nữ
TT | Tước vị | Họ tên | Sinh | Mất | Mẹ | Phu quân | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Vinh Xương Công chúa 榮昌公主 |
Chu Hiến Anh 朱軒媖 |
1582 | 1647 | Hiếu Đoan Hiển hoàng hậu | Dương Xuân Nguyên (杨春元) | |
2 | Vân Hòa Công chúa 雲和公主 |
Chu Hiến Xu 朱軒姝 |
1584 | 1590 | Cung Khác Hoàng quý phi | Rất được Thần Tông yêu quý nhưng chết yểu | |
3 | Tĩnh Nhạc Công chúa 静樂公主 |
Chu Hiến Quy 朱軒媯 |
1584 | 1585 | Đoan Tĩnh Vinh phi | Chết non | |
4 | Vân Mộng Công chúa 雲夢公主 |
Chu Hiến Nguyên 朱軒嫄 |
1584 | 1587 | Hiếu Tĩnh hoàng hậu | Chết yểu | |
5 | Tiên Cư Công chúa 仙居公主 |
Chu Hiến Cật 朱軒姞 |
1584 | 1585 | Lý Đức tần | Chết non | |
6 | Linh Khâu Công chúa 靈丘公主 |
Chu Hiến Diêu 朱軒姚 |
1588 | 1589 | Cung Khác Hoàng quý phi | Chết non | |
7 | Thọ Ninh Công chúa 壽寧公主 |
Chu Hiến Vị 朱軒媁 |
1592 | 1634 | Cung Khác Hoàng quý phi | Nhiễm Hưng Nhượng (冉兴让) | |
8 | Thái Thuận Công chúa 泰順公主 |
Chu Hiến Cơ 朱軒姬 |
không rõ | 1593 | Lý Đức tần | Chết yểu | |
9 | Hương Sơn Công chúa 香山公主 |
Chu Hiến Đặng 朱軒嬁 |
1598 | 1599 | Lý Đức tần | Chết non | |
10 | Thiên Thai Công chúa 天台公主 |
Chu Hiến Mỹ 朱軒媺 |
1605 | 1606 | Lý Thuận phi | Chết non |
Xem thêm
Chú thích
Template:Kiểm soát tính nhất quán Template:Navboxes Template:Minh mạt Thanh sơ Template:Các chủ đề
Thể loại:Vua nhà Minh Thể loại:Sinh 1563 Thể loại:Mất năm 1620