Ninh Bình

Template:Bài cùng tên Template:Thông tin đơn vị hành chính Việt Nam Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng dù chỉ có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh và Kim Sơn có địa hình bằng phẳng. Quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế xếp Ninh Bình vào vùng duyên hải Bắc Bộ. Vùng đất Ninh Bình xưa là kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968 - 1010 với 3 triều đại Đinh, Tiền Lê, Tiền Lý và cũng là địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời kỳ lịch sử. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời sở hữu 2 khu vực là di sản thế giớikhu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh Bình hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong phú và đa dạng. Năm 2015, Ninh Bình là tỉnh đầu tiên của đồng bằng sông Hồng có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Ninh Bình, Tam Điệp).

Địa lý

[[Tập tin:Ho may xay 2.JPG|nhỏ|phải|352x352px|Hồ Máy Xay ở trung tâm Tp Ninh Bình năm 2011]]

Vị trí

Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Ninh Bình nằm ở trọng tâm của nửa phía Bắc Việt Nam, khu vực các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra.

Điểm cực Đông tại cảng Đò Mười, xã Khánh Thành, Yên Khánh; điểm cực Tây tại rừng Cúc Phương, Nho Quan; điểm cực Nam tại bãi biển gần xã Kim Đông, Kim Sơn và điểm cực Bắc tại vùng núi xã Xích Thổ, Nho Quan. Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam. Thành phố Tam Điệp cách Thủ đô Hà Nội 105 km.

Địa hình

Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Đỉnh Mây Bạc thuộc rừng Cúc Phương với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất Ninh Bình.[1] Vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim SơnYên Khánh. Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim Sơn. Khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hiện 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ.

Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; tháng 4, tháng 10 là mùa xuân và mùa thu, tuy không rõ rệt như các vùng nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.700-1.800 mm; Nhiệt độ trung bình 23,5 °C; Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.700 giờ; Độ ẩm tương đối trung bình: 80-85%.

Hành chính

Ninh Bình có 2 thành phố và 6 huyện (145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17 phường và 7 thị trấn).[2]

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Ninh Bình
Tên Dân số (người)2009 Hành chính
Thành phố (2)
Ninh Bình 110.541 11 phường, 3 xã
Tam Điệp 104.175 6 phường, 3 xã
Huyện (6)
Gia Viễn 119.284 1 thị trấn, 20 xã
Tên Dân số (người)2009 Hành chính
Hoa Lư 103.900 1 thị trấn, 10 xã
Kim Sơn 172.399 2 thị trấn, 25 xã
Nho Quan 148.514 1 thị trấn, 26 xã
Yên Khánh 142.184 1 thị trấn, 18 xã
Yên Mô 169.223 1 thị trấn, 16 xã

nhỏ|383x383px

  • Diện tích:1.400 km²[3]
  • Dân số: 898.459 người (điều tra dân số 01/04/2009), 43% dân số sống ở đô thị và 57% dân số sống ở nông thôn.
  • Mật độ dân số 642 người/km².

Trên địa bàn tỉnh có hai tôn giáo chính là: Phật giáoCông giáo Rôma. 15% dân số theo đạo Công giáo.

Khoáng sản

  • Tài nguyên đá vôi: Đá vôi là nguồn tài nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh Bình. Với những dãy núi đá vôi khá lớn, chạy theo hướng tây bắc – đông nam, qua Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp, Yên Mô, tới tận biển Đông, dài hơn 40 km, diện tích trên 1.2000ha, trữ lượng hàng chục tỷ mét khối đá vôi và hàng chục triệu tấn đôlômít. Đây là nguồn nguyên liệu lớn để sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng và một số hóa chất khác.[4]
  • Tài nguyên đất sét: Phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp thuộc xã Yên Sơn, Yên Bình (Tam Điệp), huyện Gia Viễn, Yên Mô, dùng để sản xuất gạch ngói và nguyên liệu ngành đúc.
  • Tài nguyên nước khoáng: Nước khoáng Ninh Bình chất lượng tốt, tập trung chủ yếu ở Cúc Phương (Nho Quan) và Kênh Gà (Gia Viễn) có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và du lịch với trữ lượng lớn. Đặc biệt nước khoáng Kênh Gà có độ mặn, thường xuyên ở độ nóng 53÷540C. Nước khoáng Cúc Phương có thành phần Magiêbicarbonat cao, sử dụng chế phẩm nước giải khát và chữa bệnh.
  • Tài nguyên than bùn: Trữ lượng khoảng trên 2 triệu tấn, phân bố ở các xã Gia Sơn, Sơn Hà (Nho Quan), Quang Sơn (Tam Điệp), có thể sử dụng để sản xuất phân vi sinh, phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Lịch sử - Văn hóa

Lịch sử

Ninh Bình xưa cùng với Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn Lang. Thời thuộc Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên.

Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân lên ngôi hoàng đế đóng đô tại Hoa Lư và đổi tên gọi Trường Châu thành Trường An.

Năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, và Ninh Bình nằm trong phủ Trường An. Nhưng đến cuối đời Lý có lúc gọi là châu Đại Hoàng Giang[5].

Đầu đời Trần đổi là lộ Trường Yên. Đời Trần Thuận Tông, năm Quang Thắng 10 (1397) đổi trấn Trường Yên làm trấn Thiên Quan.

Thời thuộc Minh lấy lại tên cũ là châu Trường Yên thuộc phủ Kiến Bình.

Đời Lê Thái Tổ lại gọi là trấn. Năm Quang Thuận 10 (1469) đời Lê Thánh Tông định bản đồ toàn quốc, chia trấn Trường Yên làm 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan thuộc trấn Sơn Nam với trung tâm đặt tại Vân Sàng. Đời Lê Trung hưng gọi là trấn Thanh Hoa ngoại.

Đời Tây Sơn và đầu Nguyễn vẫn gọi là Thanh Hoa ngoại trấn, gồm 2 phủ: phủ Trường Yên (sau đổi là Yên Khánh) gồm 3 huyện: Yên Khang (sau đổi là Yên Khánh), Yên Mô, Gia Viễn, và phủ Thiên Quan (sau đổi là Nho Quan) gồm 3 huyện: Yên Hoá, Phụng Hoá, Lạc Thổ (sau đổi là Lạc Yên). Năm Gia Long 5 (1806) đổi Thanh Hoa ngoại trấn làm đạo Thanh Bình. Năm Minh Mệnh 3 (1822) đổi làm đạo Ninh Bình. Năm Minh Mệnh 10 (1829) lại đổi làm trấn, lập thêm 1 huyện mới Kim Sơn (cộng 7 huyện). Năm thứ 12 (1831) đổi làm tỉnh Ninh Bình[6], quan đầu tỉnh là tuần phủ, đặt dưới quyền của tổng đốc Hà Ninh (quản hạt cả vùng Hà Nội đến tận Ninh Bình). Cho đến đời Đồng Khánh không thay đổi. Đầu đời Thành Thái cắt huyện Lạc Yên về tỉnh Hoà Bình mới lập.

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam ĐịnhHà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng 8 năm 1991[7]. Khi tách ra, tỉnh Ninh Bình có diện tích 1.386,77 km², dân số 787.877 người, gồm 2 thị xã Ninh Bình (tỉnh lị), Tam Điệp và 5 huyện: Gia Viễn, Hoa Lư, Hoàng Long, Kim Sơn, Tam Điệp. Ngày 23 tháng 11 năm 1993, huyện Hoàng Long đổi lại tên cũ là huyện Nho Quan. Ngày 4 tháng 7 năm 1994, huyện Tam Điệp đổi lại tên cũ là huyện Yên Mô và tái lập huyện Yên Khánh từ 10 xã của huyện Tam Điệp cũ và 9 xã của huyện Kim Sơn[8]. Ngày 7 tháng 2 năm 2007, chuyển thị xã Ninh Bình thành thành phố Ninh Bình[9]. Ngày 6 tháng 4 năm 2015, chuyển thị xã Tam Điệp thành thành phố Tam Điệp.

Về mặt quân sự, Ninh Bình cũng giữ một vị trí then chốt vì đèo Ba Dội nằm trong dãy Tam Điệp là một cửa giao thông hiểm yếu giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, dùng đường bộ từ Thăng Long vào Thanh Hóa hay từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài, đều phải vượt đèo này. Hiện tại, nơi đây là đại bản doanh của Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết Thắng, là một trong bốn binh đoàn chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam. Các đơn vị quân đội khác đóng quân trên địa bàn Ninh Bình gồm có: Lữ đoàn 279 (Phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp); Lữ đoàn 241 (Quỳnh Lưu, Nho Quan); Trung đoàn 202 (Phú Lộc, Nho Quan); Kho J 102 (Thạch Bình, Nho Quan); Sư đoàn 350 (Bích Đào, thành phố Ninh Bình); Viện Quân y 5 (Phúc Thành, TP Ninh Bình); Đồn Biên phòng Kim Sơn và Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Ninh Bình (Kim Đông, Kim Sơn).

Văn hóa

[[Tập tin:codoj6.JPG|nhỏ|phải|326x326px|Cố đô Hoa Lư, kinh đô 3 triều đại 6 vị vua]] Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng sông HồngBắc Trung Bộ. Đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa Ninh Bình tương đối năng động, phát triển trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động vật trên cạn ở núi Ba (Tam Điệp) và một số hang động khác của kỳ đồ đá cũ thuộc nền Văn hóa Tràng An; động Người Xưa (Cúc Phương) và một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình. Sau thời kỳ văn hoá Hoà Bình, vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình là nơi định cư của con người thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng Vườn (Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng. Cư dân cổ di chỉ Đồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ở giai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu. Ninh Bình là địa bàn có nhiều di tích khảo cổ học thuộc các thời kỳ văn hóa Tràng An, Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút và Đông Sơn.

Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo vệ Thăng Long của triều đại Tây Sơn với phòng tuyến Tam Điệp, là căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông với hành cung Vũ Lâm, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô, các căn cứ quân sự khác như thành nhà Mạc, thành nhà Hồ hiện vẫn còn dấu tích ở Yên Mô...

Thế kỷ XVI - XVII, đạo Công giáo được truyền vào Ninh Bình, dần dần hình thành trung tâm Công giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn với 60% tổng số giáo dân toàn tỉnh.[10] Bên cạnh văn hoá của cư dân Việt cổ, Ninh Bình còn có "văn hoá mới" của cư dân ven biển. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình. Những địa danh cửa biển như: Phúc Thành, Đại An, Con Mèo Yên Mô, cửa Càn, cửa biển Thần Phù cùng với các con đê lịch sử như đê Hồng Đức, đê Hồng Lĩnh, đê Đường Quan, đê Hồng Ân, đê Hoành Trực, đê Văn Hải, đê Bình Minh I, II, III, IV... Cho đến nay vùng đất Ninh Bình vẫn tiến ra biển mỗi năm gần 100 m. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng không gian văn hoá Việt xuống biển Đông, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoá từ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng nổi bật như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo, nuôi cua... Nếp sống của cư dân lấn biển mang tính chất động trong vùng văn hoá môi trường đất mở.

Dãy núi đá vôi ngập nước tạo ra nhiều hang động kỳ thú như: Tam Cốc - Bích Động, động Vân Trình, động Tiên, động Thiên Hà, Tràng An, động Mã Tiên... Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động", Địch Lộng là "Nam thiên đệ tam động". Ở phía nam thành phố Ninh Bình có một quả núi giống hình một người thiếu nữ nằm ngửa nhìn trời gọi là núi Ngọc Mỹ Nhân. Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diện mạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu ấn văn hoá của các tao nhân mặc khách khi qua vùng sơn thanh thuỷ tú này. Các đế vương, công hầu, khanh tướng, danh nhân văn hoá lớn như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Xuân Quỳnh về đây, xếp gương, đề bút, sông núi hoá thành thi ca. Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đó đã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thụ, sáng tạo, làm giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình.

Hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình gắn liền với tín ngưỡng của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần thông qua các đền thờ Vua (đặc biệt là các Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Thái Tông, Quang Trung và Triệu Quang Phục với số lượng vài chục đền thờ mỗi vị); thờ Thánh (Nguyễn Minh Không và các tổ nghề, đặc biệt là tín ngưỡng thờ mẫu với nhân vật Cô Đôi Thượng Ngàn sinh ra ở Ninh Bình); thờ Thần (phổ biến là các vị thần Thiên Tôn, thần Cao Sơn và thần Quý Minh trong không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn). Ninh Bình là vùng đất phong phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội Tràng An... Các lễ hội khác: Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, lễ hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, đền Thánh Nguyễn, đền Dâu, hội vật Yên Vệ, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ... các công trình kiến trúc văn hóa như đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền vua Lê Đại Hành, nhà thờ Phát Diệm, chùa Bái Đính, đền Thánh Nguyễn, làng chèo Phúc Trì, Nam Dân, Thượng Kiệm, những trung tâm hát chầu văn, xẩm, ca trù ở đền Dâu, phủ Đồi... Ninh Bình là đất tổ của nghệ thuật hát Chèo, là quê hương các làn điệu hát xẩm, ca trù và của nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu khắc đá Ninh Vân, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren Văn Lâm, nghề nấu rượu và chiếu cói ở Kim Sơn...

Danh nhân

Vùng đất Ninh Bình là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, Vua Lê Đại Hành, Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu, Quốc sư Nguyễn Minh Không, Trạng Bồng Vũ Duy Thanh, Anh hùng Lương Văn Tụy, Sử gia Ninh Tốn, Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thượng thư Trịnh Tú, Thái sư Lưu Cơ,... Ninh Bình là nơi gắn với đỉnh cao sự nghiệp của các danh nhân như Doanh điền Nguyễn Công Trứ, Bà tổ hát chèo Phạm Thị Trân, Vua Lý Thái Tông, nhà Hậu Trần, Vua Quang Trung... Ninh Bình cũng là nơi sinh ra những nhà cách mạng tiêu biểu như Thượng tướng Nguyễn Hữu An nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, Bí thư xứ ủy Nam Kỳ Tạ Uyên, nguyên chủ tịch nước Trần Đại Quang, Đô đốc hải quân Nguyễn Văn Hiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam...

Hiện nay, Ninh Bình là quê hương của nhiều nhân vật tiêu biểu đang tại chức như:

Hạ tầng

Giao thông

nhỏ|phải|300px|Quốc lộ 10 vào thành phố Ninh Bình Ninh Bình là một điểm nút giao thông quan trọng, có 10 quốc lộ (trong đó có 6 quốc lộ khởi đầu và 4 quốc lộ đi qua) dàn đều trên tất cả các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh:

Ninh Bình cũng là điểm đầu của 3 dự án đường cao tốc là: đường cao tốc Ninh Bình - Cầu Giẽ; Ninh Bình - Thanh Hóa và Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh. Bến xe Ninh Bình nằm gần nút giao thông giữa quốc lộ 1A và quốc lộ 10 ở thành phố Ninh Bình. Mạng lưới giao thông tỉnh lộ khá thuận tiện với những tuyến xe buýt nội tỉnh.

Về giao thông đường sắt Ninh Bình có trục đô thị Tam Điệp – Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt Bắc-Nam. Trên địa bàn tỉnh có các ga Ninh Bình, ga Cầu Yên, ga Ghềnh và ga Đồng Giao.

Về giao thông đường thủy Ninh Bình có hệ thống sông hồ dày đặc: sông Đáy là sông lớn nhất chảy vào giữa ranh giới Ninh Bình với Hà Nam, Nam Định. Hệ thống sông Hoàng Long chảy nội tỉnh cung cấp tưới tiêu cho các huyện phía Bắc. sông Vạc, Sông Càn với nhiều nhánh nhỏ ở các huyện phía Nam. Các sông nội tỉnh khác: sông Vân, sông Bôi, sông Lạng, sông Bến Đang và các hồ lớn như hồ Đồng Thái, hồ Yên Quang, hồ Yên Thắng, hồ Thường Xung đem lại nguồn lợi đáng kể về tưới tiêu, giao thông và khai thác thuỷ sản.

Ninh Bình 4 cảng chính do trung ương quản lý là cảng Ninh Bình, cảng Ninh Phúc, cảng ICD Phúc Lộc và cảng Cầu Yên. Cảng K3 (nhà máy nhiệt điện Ninh Bình) cũng đã được nâng cấp là cảng chuyên dụng. Các bến xếp dỡ hàng hoá, khu neo tránh tàu thuyền nằm trên các bờ sông và cửa sông. Cảng sông Ninh Bình có thể đạt công suất 9 triệu tấn/năm, chỉ đứng sau Hà Nội ở miền Bắc. Cảng Ninh Phúc là cảng sông đầu mối quốc gia. Ngoài ra có cảng Ninh Bình, Cảng xăng dầu dầu khí Ninh Bình, cảng Long Sơn, Cảng đạm Ninh Bình, Cảng Vissai, cảng Phúc Lộc, cảng tổng hợp Kim Sơn là những cảng tiếp nhận tàu biển và phương tiện thủy quốc tế[11]... Hệ thống đường thuỷ gồm 22 tuyến sông trong đó Trung ương quản lý 4 tuyến (sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vạc và kênh nhà Lê) với tổng chiều dài gần 364,3 km.

Một số cầu có quy mô lớn như: cầu Ninh Bình, cầu Non Nước, cầu Gián Khẩu, cầu Nam Bình, cầu Trường Yên, cầu Kim Chính, cầu vượt biển ra Cồn Nổi.

Đô thị

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Ninh Bình đến năm 2030, tầm nhìn 2050, tỉnh Ninh Bình sẽ có 1 đô thị trung tâm loại I là thành phố Ninh Bình mở rộng khoảng 21.124 hecta, 1 đô thị loại II là Tam Điệp, 2 đô thị loại III là Nho Quan, Phát Diệm và 15 đô thị khác là: Me, Yên Ninh, Yên Thịnh, Gián Khẩu, Rịa, Ngã ba Anh Trỗi, Gia Lâm, Khánh Thành, Khánh Thiện, Vân Long, Bút, Lồng, Bình Minh, Kim Đông, Cồn Nổi. Quy mô với tổng diện tích quy hoạch được xác định là gần 1.390 hecta.[12] Quy hoạch cũng xác định thành phố Ninh Bình sẽ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đến năm 2030 với dân số 1 triệu người.[13]

  • Đô thị Ninh Bình hiện là đô thị loại II. Dự kiến giai đoạn 2015-2020 sẽ điều chỉnh mở rộng phạm vi, ranh giới để trở thành đô thị loại I như sau: Lấy thành phố Ninh Bình làm trung tâm và sáp nhập toàn bộ diện tích huyện Hoa Lư, một phần đất của thành phố Tam Điệp, Yên Mô, Yên Khánh, Gia Viễn, Nho Quan. Thành phố Ninh Bình là trung tâm văn hóa, lịch sử, du lịch cấp Quốc gia, có ý nghĩa Quốc tế. Là đô thị đầu mối giao thông, cửa ngõ phía Nam vùng duyên hải Bắc Bộ;.
  • Đô thị Tam Điệp: là thành phố trực thuộc tỉnh, định hướng đến năm 2020 là đô thị loại II. Là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội, khoa học kỹ thuật, dịch vụ, du lịch, công nghiệp. Là đô thị đầu mối giao thông và có vị trí quan trọng về mặt an ninh quốc phòng.
  • Đô thị Phát Diệm: định hướng giai đoạn 2015-2020 trở thành đô thị loại IV và là thị xã trực thuộc tỉnh. Là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội vùng Đông Nam tỉnh Ninh Bình; có ưu thế phát triển dịch vụ du lịch, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Là trung tâm dịch vụ du lịch văn hóa, lịch sử, sinh thái và tôn giáo tín ngưỡng phía Bắc Việt Nam.
  • Đô thị Nho Quan: Hiện tại là đô thị loại V, định hướng giai đoạn 2015-2020 trở thành đô thị loại IV và là Thị xã trực thuộc tỉnh. Là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội vùng Tây Bắc tỉnh Ninh Bình. Là đô thị du lịch, công nghiệp, dịch vụ, thương mại khu vực Tây Bắc tỉnh Ninh Bình.
  • Đô thị Rịa sẽ trở thành trung tâm huyện mới Nho Quan và đô thị Bình Minh sẽ trở thành trung tâm huyện mới Kim Sơn.
  • Đô thị Vân Long và đô thị Cồn Nổi được xác định là những đô thị du lịch.

Kinh tế

[[Tập tin:Damninhbinh3.JPG|nhỏ|phải|300px|Công trình nhà máy đạm Ninh Bình]] Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Đây là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa khu vực châu thổ sông Hồng với Bắc Trung Bộ, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng núi Tây Bắc. Thế mạnh kinh tế nổi bật của Ninh Bình là các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch.

Năm 2015, Ninh Bình là địa phương đứng thứ 6 ở Việt Nam chỉ sau Tp HCM, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh, Đồng Nai về số doanh nghiệp tư nhân lớn trong tốp 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam với 11 doanh nghiệp là: Công ty cp ô tô Hyundai Thành Công, Tập đoàn The Vissai, Công ty cp Xi măng Hướng Dương, DN TNXD Xuân Trường, Công ty TNHH ĐTXD và PT Xuân Thành, Công ty cp xăng dầu dầu khí Ninh Bình, DNTN Nam Phương, Công ty TNHH Hoàng Hà, Tập đoàn ThaiGroup, Tập đoàn Công nghiệp Quang Trung, Tập đoàn Cường Thịnh Thi.

Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2017: Công nghiệp - xây dựng: 43,30%; Nông, lâm - ngư nghiệp: 13,65%; Dịch vụ: 43,05%.[14]

Công nghiệp

[[Tập tin:cangninhphuc.jpg|nhỏ|phải|300px|Cảng Ninh Phúc ở khu CN Khánh Phú]] Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều[15] trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xi măng The Vissai, xi măng Hệ Dưỡng (công suất 3,6 triệu tấn/năm), xi măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng Duyên Hà, xi măng Hướng Dương... Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi măng, đá, thép, vôi, gạch...

Ninh Bình hiện có 7 khu công nghiệp sau:

  1. Khu công nghiệp Gián Khẩu: nằm ở huyện Gia Viễn, bên quốc lộ 1A.
  2. Khu công nghiệp Khánh Phú: nằm ở đông nam thành phố Ninh Bình, bên sông Đáy, gần quốc lộ 10.
  3. Khu công nghiệp Tam Điệp 1: 64 ha ở thành phố Tam Điệp, bên quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam.
  4. Khu công nghiệp Tam Điệp 2: 400 ha, xã Quang Sơn, Tam Điệp, bên đường cao tốc Bắc Nam và gần đường sắt Bắc Nam.
  5. Khu công nghiệp Phúc Sơn: nằm ở thành phố Ninh Bình, bên tuyến đường nối cảng Ninh Phúc (quốc lộ 35).
  6. Khu công nghiệp Khánh Cư: nằm ở huyện Yên Khánh, bên quốc lộ 10
  7. Khu công nghiệp Kim Sơn nằm trong khu kinh tế tổng hợp ven biển có diện tích 500 ha thuộc huyện Kim Sơn, gần đường quốc lộ ven biển Việt Nam.

Ninh Bình còn có 22 cụm công nghiệp với diện tích 880 ha. Các dự án thuộc khu công nghiệp lớn như: Nhà máy đạm Ninh Bình,Công ty Phân lân Ninh Bình (một trong 4 công ty sản xuất phân lân lớn nhất cả nước), Nhà máy xi măng The Vissai; Nhà máy sản xuất và lắp ráp ô tô Thành Công; Nhà máy may xuất khẩu Nien Hsing; Nhà máy sản xuất gia công giày, dép xuất khẩu ADORA; Nhà máy xi măng Tam Điệp... Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 đạt 3.242 tỷ đồng, chiếm 33,6% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, nộp ngân sách Nhà nước 665 tỷ đồng, chiếm 22% thu ngân sách toàn tỉnh; kim ngạch xuất khẩu đạt 39,6 triệu USD, chiếm 49% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh.[16] Năm 2011, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 12.826 tỷ đồng, tăng 4.168 tỷ đồng so với thực hiện năm 2010.

Về thu hút đầu tư, Ninh Bình đã có những dự án công nghiệp với mức đầu tư lớn được xây dựng như: Nhà máy Luyện, Cán thép chất lượng cao Kyoei Việt Nam với công suất triệu tấn/năm, công nghệ tự động hóa tiên tiến nhất khu vực Đông Nam Á giải quyết việc làm cho 1500 lao động.[17] Nhà máy đạm Ninh Bình công suất 56 vạn tấn/năm, nhà máy sản xuất phụ tùng động cơ tàu thuỷ Vinashin, nhà máy sản xuất sôđa, nhà máy sản xuất phôi thép Ninh Bình.

Nghề thủ công truyền thống địa phương có: thêu ren Văn Lâm, đá mỹ nghệ Ninh Vân ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, Yên Khánh..., đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, làng nghề mộc Phúc Lộc, Ninh Phong (Tp Ninh Bình).

Nông nghiệp

nhỏ|phải|300px|Vùng ven biển Kim Sơn là khu dự trữ sinh quyển thế giới Ninh Bình có lợi thế phát triển ngành nông nghiệp đa dạng nhiều thành phần. Các vùng chuyên canh nông nghiệp chính của tỉnh: vùng nông trường Đồng Giao chuyên trồng cây công nghiệp như cây dứa thơm, vùng Kim Sơn trồng cây cói làm chiếu, hàng mỹ nghệ, nuôi tôm sú, hải sản, khu vực làng hoa Ninh Phúc, Ninh Sơn trồng hoa và rau sạch. Cơ cấu Nông, lâm, thuỷ sản trong GDP của tỉnh, năm 2007 đạt 26% (mục tiêu đến năm 2010 là 17%). Lĩnh vực nuôi thuỷ sản phát triển khá ổn định, nhất là ở khu vực nuôi thả thuỷ sản nước ngọt. Diện tích nuôi thuỷ sản năm 2007 đạt 9.021 ha, tăng 27,7% so với năm 2004; trong đó diện tích nuôi thả vùng nước ngọt đạt 6.910 ha, nuôi thuỷ sản nước lợ 2.074 ha. Sản lượng thuỷ sản năm 2007 đạt 18.771 tấn. Trong đó sản lượng tôm sú đạt 1.050 tấn, cua biển đạt 1.280 tấn. Tổng giá trị thuỷ sản năm 2007 đạt 350 tỷ đồng, tăng 73,4 tỷ đồng so với năm 2004. Về hạ tầng, tỉnh đang đầu tư, nâng cấp, xây mới nhiều trạm bơm nước, kênh mương. Các tuyến đê quan trọng như: đê biển Bình Minh II; đê tả, hữu sông Hoàng Long; đê Đầm Cút, đê Năm Căn, hồ Yên Quang, âu Cầu Hội... được nâng cấp theo hướng kiên cố hoá.

Thương mại - Dịch vụ

nhỏ|phải|300px|Bệnh viện đa khoa 700 giường Ninh Bình có vị trí hội tụ giao thông liên vùng rất thuận lợi cho phát triển lưu thông hàng hóa với các địa phương khác trong cả nước. Về dịch vụ hạ tầng du lịch, Ninh Bình có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình du lịch: sinh thái - nghỉ dưỡng, văn hóa - lịch sử - tâm linh, du lịch mạo hiểm, thể thao.

Ninh Bình đang có nhiều nỗ lực kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Tỉnh coi đây là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn. Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ đạt 16%
Từ năm 2004, Sở Công thương Ninh Bình đã xây dựng quy hoạch mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Năm 2008, toàn tỉnh có 107 chợ, trong đó hiện có Chợ Rồngthành phố Ninh Bình là chợ loại 1 và 5 chợ loại 2. Các chợ Rồng, chợ Đồng Giao, chợ Nam Dân, chợ Ngò đều được Bộ Công thương quy hoạch thành chợ đầu mối tổng hợp, 3 chợ đầu mối nông sản được đầu tư xây mới là chợ thủy sản Kim Đông, chợ rau quả Tam Điệp và chợ nông sản Nho Quan.

Thể thao - Y tế - Giáo dục

Từ năm 2005 tỉnh có một đội bóng chuyền hạng mạnh là Tràng An Ninh Bình, một đội bóng mạnh trong hệ thống thi đấu bóng chuyền Việt Nam, đoạt danh hiệu vô địch quốc gia các năm 2006, 2010 và năm 2012. Các môn thể thao thế mạnh khác của Ninh Bình là vật, cầu lông và bóng bàn. Một số vận động viên thể thao Ninh Bình tiêu biểu như Nguyễn Đình Cương, Trương Thanh Hằng...

Trước năm 2014, Ninh Bình cùng với Hà Nội, Hải Phòng là 3 địa phương ở phía bắc Việt Nam có đội bóng chuyên nghiệp tham gia giải bóng đá vô địch quốc gia. Câu lạc bộ bóng đá Xi măng The Vissai Ninh Bình lấy sân vận động Tràng An làm sân nhà. sân vận động Ninh Bình là sân vận động cấp 1. Tuy nhiên, từ sau vụ bán độ năm 2014, Câu lạc bộ này đã giải thể.

Từ năm 2010, ngành Y tế Ninh Bình hiện có 2 bệnh viện quân đội là Bệnh viện Quân y 5 của Quân khu 3 và bệnh viện Quân y 145 của Quân đoàn 1; 7 bệnh viện tuyến tỉnh đó là bệnh viện đa khoa Ninh Bình, bệnh viện Y học cổ truyền Ninh Bình (100 giường), Bệnh viện điều dưỡng - PHCN (100 giường), bệnh viện Lao và bệnh phổi Ninh Bình (100 giường), Bệnh viện Tâm thần Ninh Bình (100 giường), Bệnh viện Sản - Nhi Ninh Bình (200 giường) và bệnh viện Mắt Ninh Bình (50 giường).

Về giáo dục và đào tạo tỉnh có Trường Đại học Hoa Lư và 5 trường cao đẳng: Trường Cao đẳng nghề Cơ giới Ninh Bình; Trường Cao đẳng nghề LILAMA-1; Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình; Trường Cao đẳng Nghề số 13 và Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Xây dựng Tam Điệp. Nhiều năm liền, kết quả thi tuyển sinh đại học, cao đẳng của học sinh Ninh Bình luôn thuộc tốp 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu vể điểm bình quân các môn thi: xếp thứ 2/63 năm 2013; xếp thứ 4/63 năm 2014; xếp thứ 4/63 năm 2015; xếp thứ 4/63 năm 2016;[18] xếp thứ 3/63 năm 2017;[19] và xếp thứ 3/63 năm 2018.[20]

Du lịch

Quy hoạch du lịch Việt Nam đến năm 2030 xác định Ninh Bình là một trung tâm du lịch (Ninh Bình và phụ cận) với khu du lịch quốc gia là quần thể di sản thế giới Tràng An và 2 trọng điểm du lịch vườn quốc gia Cúc Phươngkhu bảo tồn thiên nhiên Vân Long.

Tiềm năng

Template:Chính

[[Tập tin:Phatdiemk-6.jpg|nhỏ|341x341px|phải|Kiến trúc đá đặc trưng ở nhà thờ Phát Diệm]] Ninh Bình có tiềm năng du lịch rất lớn, là nơi có tới 4 danh hiệu UNESCO với quần thể di sản thế giới Tràng An, ca trù, tín ngưỡng thờ Mẫu và khu dự trữ sinh quyển thế giới Bãi ngang - Cồn Nổi. Nơi đây sở hữu nhiều danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như:

Hiện nay, ngoài quần thể di sản thế giới Tràng An, Ninh Bình có các khu di sản đã và đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới:

Ngoài ra, Vườn quốc gia Cúc Phương, hệ thống núi rừng Cố đô Hoa Lư, khu sinh thái Tràng An là những khu vực của Việt Nam có thể được UNESCO công nhận công viên địa chất toàn cầu[22][23][24]

Khai thác

[[Tập tin:Chua Bai Dinh X8.JPG|nhỏ|phải|333x333px|Công trình xây dựng chùa Bái Đính]] Năm 2017, ngành du lịch Ninh Bình đón 7 triệu lượt khách, tăng 9%; doanh thu ước đạt 2.450 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 2016.[25]

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ninh Bình cùng với Hà Nội và Quảng Ninh được xác định là các trung tâm du lịch của khu vực đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc.

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Ninh Bình đến năm 2030, thành phố Ninh Bình sẽ trở thành một thành phố du lịch; khu vực Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long sẽ trở thành thị trấn Vân Long với vai trò là một đô thị du lịch ở phía bắc Ninh Bình khu vực Cồn Nổi sẽ trở thành thị trấn Cồn Nổi với vai trò là một đô thị du lịch phía nam Ninh Bình.[12]

Được tỉnh xác định là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn (Định hướng thu nhập du lịch thuần tuý >10%). Trong những năm gần đây, ngành Du lịch Ninh Bình đang khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của toàn tỉnh.[26]

Ninh Bình được xác định là một trung tâm du lịch của vùng duyên hải Bắc Bộ[27], sẽ trở thành thành phố du lịch trong tương lai.[28]

Đặc sản ẩm thực

Đặc sản Ninh Bình [29] nổi tiếng gồm có các món ăn chế biến từ thịt dê núi Ninh Bình, Rượu Kim Sơn, nem chua (Yên Mạc - Yên Mô), miến lươn, cá rô Tổng Trường, dứa Đồng Giaocơm cháy Ninh Bình. Đặc biệt phát triển mạnh ở các khu du lịch và dọc theo tuyến quốc lộ 1A.

Trong các đặc sản Ninh Bình thì thịt dê núi Ninh Bình là nổi tiếng và độc đáo nhất. Thịt dê Ninh Bình ngon hơn các vùng khác vì: Dê ở đây nuôi trên núi đá vôi, ăn đa dạng các loại lá cây nên thịt săn chắc hơn so với dê thả đồi; Món ăn từ thịt dê được đi kèm với các loại rau thơm địa phương như lá đinh lăng, lá mơ, lá sung và thịt dê được địa phương xây dựng thành món ẩm thực đặc trưng, đậm đà hương vị sông núi quê hương, được kế thừa truyền thống với những bí quyết riêng, biến thịt dê thành món đặc sản nổi tiếng.

Thơ ca, văn học

Trương Hán Siêu có thể coi là người có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp Ninh Bình qua hình ảnh núi Non Nước. Ông đặt tên núi là Dục Thúy Sơn và là người đầu tiên lưu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thưởng ngoạn, ngắm cảnh làm những bài thơ khắc vào hệ thống đá núi, hang động ở Ninh Bình. Các vua nhà Hậu Lê cũng đặt hành cung ở trên núi Dục Thúy Sơn để đến chơi thăm và vịnh thơ. Hiếm có ngọn núi nào có trên 30 bài thơ văn khắc vào núi như núi Thuý và còn đến hàng trăm bài thơ vịnh cảnh của các nhà thơ qua các triều đại: Trần Anh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Phạm Văn Nghị... Bài thơ "Dục Thúy Sơn khắc thạch" của Trương Hán Siêu nói về vẻ đẹp núi Dục Thúy ở thành phố Ninh Bình được khắc bên sườn núi, hãy còn bút tích. Các thắng cảnh nằm ở cửa ngõ Ninh Bình như Kẽm TrốngĐèo Ba Dội trên quốc lộ 1A; núi Non Nước, núi Ngọc Mỹ Nhân gần quốc lộ 10 đều rất nổi tiếng từ xa xưa trong thơ ca.

Bài thơ "Dục Thuý sơn" của Nguyễn Trãi vừa lột tả vẻ đẹp của thiên nhiên Ninh Bình vừa thể hiện một tâm hồn đẹp và tinh tế về con người và đất nước của Nguyễn Trãi, đó là thái độ trân trọng tha thiết đối với những giá trị văn hóa dân tộc qua tình cảm mà ông dành cho Trương Hán Siêu và vùng đất cố đô: [[Tập tin:Ngọc Mỹ Nhân Mountain 1.jpg ‎|nhỏ|phải|327x327px|Núi Ngọc Mỹ Nhân nhìn từ cánh đồng huyện Yên Mô]] [[Tập tin:Van long NB.jpg|nhỏ|phải|331x331px|Chim bay trên khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long]]

Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen
Cảnh tiên rơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen...

Lê Quý Đôn đã cho khắc một bài thơ ở phía tây núi Ngọc Mỹ Nhân khi ông đến thăm nơi đây:

Ruộng phẳng nhô đá biếc
Thế núi tựa diều bay
Chùa ẩn ba đỉnh núi
Sông có cầu qua ngay...

Cao Bá Quát cũng có bài thơ Trên đường đi Ninh Bình (Ninh Bình đạo trung) khi chiêm ngưỡng cảnh đẹp non nước hữu tình:

Sông tựa dải là cô gái đẹp,
Núi như chén ốc khách làng say
Trăng non gió mát kho vô tận,
Chỉ sợ nhà thơ mãi ở đây.

Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng có cái nhìn rất mới về Ninh Bình:

...Nghĩ đến anh em nhớ về hướng núi
Ngọn núi Cánh Diều ngọn núi mây bay
Trời Ninh Bình chiều nay hẳn nhiều mây
Mưa to thế chắc sông tràn bờ cỏ?...

Nữ sĩ Xuân Hương có 2 bài thơ là Kẽm TrốngĐèo Ba Dội nổi tiếng khi đến và chia tay Ninh Bình. Bài thơ Kẽm Trống mở đầu bằng cái nhìn rất cá tính của bà:

Hai bên thì núi, giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không?

Bài Đèo Ba Dội vừa mô tả cảnh đẹp vừa hàm chứa những ẩn ý:

Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân, quân tử ai là chẳng...
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.

Tỉnh kết nghĩa

🇰🇷 thành phố Jecheon, Hàn Quốc

Xem thêm

Chú thích

  1. Những hồ sâu và núi cao nhất Ninh Bình
  2. http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Thanh-lap-Thanh-pho-Tam-Diep-Ninh-Binh-va-Thi-xa-Ky-Anh-Ha-Tinh-post157266.gd.  Unknown parameter |nhà xuất bản= ignored (help); Unknown parameter |tiêu đề= ignored (help); Missing or empty |title= (help)
  3. Niên giám thông kê Ninh Bình năm 2008 http://ninhbinh.gov.vn/web/guest/611.  Unknown parameter |nhà xuất bản= ignored (help); Unknown parameter |tiêu đề= ignored (help); Unknown parameter |ngày truy cập= ignored (help); Missing or empty |title= (help)
  4. Giới thiệu chung về Ninh Bình
  5. năm 1203 đời Lý Cao Tông: theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư;Phương đình địa dư chí 5-5b: châu Đại Hoàng.
  6. Ninh Bình trở thành một trong số 13 tỉnh ở Bắc Kỳ với 6 huyện Yên Khánh, Nho Quan, Kim Sơn, Gia Khánh, Gia Viễn và Yên Mô, thuộc Liên khu 3.
  7. Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Quốc hội ban hành
  8. Nghị định 59-CP năm 1994 về việc sáp nhập thôn Đông Thôn, xã Yên Lâm vào xã Yên Thái, thành lập huyện Yên Khánh, đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô thuộc tỉnh Ninh Bình
  9. Nghị định 19/2007/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Ninh Bình thuộc tỉnh Ninh Bình
  10. Ninh Bình: Vùng đất nhiều kỳ tích và huyền thoại, TRUNG TÂM THÔNG TIN DU LỊCH - TỔNG CỤC DU LỊCH, Nguồn: website Ninhbinhtourism, Cập nhật: 08/10/2008
  11. DANH SÁCH CẢNG THỦY NỘI ĐỊA TIẾP NHẬN TẦU BIỂN VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG TIỆN THỦY NƯỚC NGOÀI
  12. 12,0 12,1 Quyết định 796/QĐ-UBND năm 2012 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị tỉnh Ninh Bình đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050
  13. Báo cáo phương án quy hoạch chung Tp.Ninh Bình đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
  14. Kết quả và các chỉ tiêu kinh tế, xã hội của tỉnh Ninh Bình năm 2017, Kế hoạch năm 2018
  15. Ninh Bình: Các nhà máy xi măng hoạt động sẽ tăng nguồn thu ngân sách, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, TĐ (theo UBND tỉnh NB), 04/11/2009
  16. Hiệu quả chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
  17. Dự án Nhà máy luyện cán thép chất lượng cao của Công ty TNHH Thép KYOEI Việt Nam tại KCN Khánh Phú
  18. 5 tỉnh có điểm thi trung bình THPT quốc gia cao nhất nước
  19. Giáo dục Ninh Bình tiếp tục phát triển toàn diện và vững chắc, nâng cao vị thế trong khu vực Đồng bằng sông Hồng
  20. Ninh Bình xếp thứ 3 toàn quốc năm 2018 về số điểm trung bình THPT cao nhất
  21. Nhà thờ Phát Diệm - Thánh đường độc đáo, bí ẩn nhất thế giới
  22. Việt Nam: Nhiều khu vực có thể trở thành Công viên Địa chất
  23. Thêm 15 điểm có thể trở thành công viên địa chất
  24. Việt Nam có tiềm năng xây dựng công viên địa chất
  25. Năm 2017: Ninh Bình thu hút trên 7.000.000 lượt khách du lịch
  26. Thiên nhiên và di sản văn hoá - thế mạnh của du lịch Ninh Bình, Vũ Anh Minh, Báo Tin tức-Thông tấn xã Việt Nam, 09:28:00 Thứ Ba, 04/10/2011
  27. Ninh Bình: Du lịch sẽ là ngành kinh tế mũi nhọn
  28. Ninh Bình giải bài toán "giữ chân" du khách
  29. [1]
  30. Ninh Bình và Cà Mau ký kết Bản ghi nhớ hợp tác

Liên kết ngoài

Template:Thể loại Commons

Template:Đơn vị hành chính cấp tỉnh Việt Nam

Thể loại:Vùng duyên hải Bắc Bộ Thể loại:Huyện Ninh Bình