Sự biến Thổ Mộc bảo
Template:Thông tin chiến tranh
Sự biến Thổ Mộc bảo (Template:Zh-p; Hán Việt: Thổ Mộc bảo chi biến) hay Sự biến Thổ Mộc (Template:Zh-p; Thổ Mộc chi biến) là cuộc chiến xảy ra vào ngày Nhâm Tuất (15) tháng 8 năm Kỉ Tị (1 tháng 9 năm 1449) tại biên giới Đại Minh giữa quân đội nhà Minh và lực lượng của bộ lạc Ngõa Lạt (Oirat) Mông Cổ. Trong trận chiến này, lực lượng nhà Minh vốn đông đảo hơn đã thất bại hoàn toàn trước đội quân của Ngõa Lạt do Dã Tiên thai cát chỉ huy, toàn bộ chỉ huy của quân Minh bị tiêu diệt hoặc bắt sống trong đó có Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn, hoàng đế đương triều của nhà Minh. Với việc toàn quân bại trận, hoàng đế bị bắt sống, Sự biến Thổ Mộc bảo được coi là thất bại quân sự lớn nhất trong lịch sử nhà Minh và là bước ngoặt đánh dấu sự thay đổi cán cân quyền lực ở biên giới phía Bắc Trung Quốc giữa nhà Minh và các bộ tộc gốc Mông Cổ.
Contents
Bối cảnh
Người Mông Cổ bị Minh Thái Tổ đánh đuổi về thảo nguyên phía bắc (1368) nhưng vẫn là lực lượng hùng mạnh, luôn uy hiếp biên cương nhà Minh trong những năm sau đó. Trong đời Minh Thành Tổ đã từng ra quân, tuy đã làm yếu thêm quân Mông Cổ, nhưng đến thời Minh Anh Tông tương quan lực lượng đã thay đổi.
Chiến sự liên miên trong nước cùng sự tham lam của bộ máy cai trị khiến quân đội nhà Minh càng suy yếu. Đồn điền vốn của quân sĩ tự cày cấy nuôi nhau bị các võ quan cao cấp và các địa chủ lớn tại địa phương chiếm làm của riêng, thu nhập của đồn điền không đủ nuôi binh sĩ[1].
Quân sĩ bỏ trốn rất nhiều, tính đến năm 1448, Bộ Binh báo cáo lên triều đình, tổng số quân sĩ bỏ trốn phải xóa tên lên tới 66 vạn người, điển hình tại một Bách hộ ở Sơn Đông, trong tổng số 120 quân lính bỏ trốn gần hết chỉ còn lại 1 người. Ngoài ra, vũ khí trang bị cho quân đội nhà Minh cũng vừa thiếu vừa kém chất lượng, nhiều đồ dùng bị hư hỏng[1].
Tộc Ngõa Lạt là một chi của Mông Cổ, trước kia sinh sống du mục ở phía tây nam hồ Baikan. Khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất các bộ tộc Mông Cổ, Ngõa Lạt quy phục Mông Cổ rồi di chuyển dần về phía thượng lưu sông Enisei, phát triển về phía nam, mở rộng thế lực tới sông Táp Bồn và vùng lòng chảo Chuẩn Cát Nhĩ. Đến đầu thời Minh, bộ tộc Ngõa Lạt lớn mạnh hơn so với các bộ tộc Mông Cổ khác.
Trong lúc nhà Minh có dấu hiệu suy yếu thì các bộ lạc Mông Cổ lại mạnh lên. Các bộ lạc Ngõa Lạt và Thát Đát được thống nhất. Từ năm 1439, Dã Tiên thái sư của tộc Ngõa Lạt lên nắm quyền trong chính quyền Mông Cổ của Khả hãn Thoát Thoát. Nhân sự suy nhược của nhà Minh, Dã Tiên dần dần nảy sinh ý định đánh xuống trung nguyên để khôi phục uy quyền của nhà Nguyên trước đây[2].
Xung đột ngoại giao
Để vỗ về Dã Tiên, Minh Anh Tông cho phép Dã Tiên vượt rào quy định, từ năm 1442 đoàn sứ Mông Cổ vào triều cống ở Bắc Kinh được phép có tới hàng ngàn người và có thể đi tìm kiếm những vật quý hiếm của Trung Quốc.
Nhân lúc quân Minh sa lầy vào cuộc chiến ở phía tây nam (Vân Nam), năm 1442 Dã Tiên mang quân tiến về phía tây, xây dựng quan hệ thông gia với các vệ Sa châu và Xích Cân Mông Cổ, khiến những nơi này càng ngày càng xa rời nhà Minh. Sang năm 1445, Dã Tiên lôi kéo những nơi này tham chiến đánh Cáp Mật vệ. Thủ lĩnh Đảo Ngõa Tháp Thất Lý cầu cứu nhà Minh nhưng không được cứu viện, buộc phải thần phục Dã Tiên. Dã Tiên dần dần mở rộng lãnh thổ từ phía đông tới Triều Tiên, phía tây tới Tân Cương.
Năm 1448, Dã Tiên lại cử đoàn sứ bộ gồm 2524 người đến Bắc Kinh, nói thăng lên 3598 người để lĩnh thêm đồ thưởng của nhà Minh. Hoạn quan Vương Chấn cầm quyền trong triều ra lệnh điều tra số lượng sứ bộ, lại thấy ngựa mang cống của Dã Tiên nhỏ gầy, bèn hạ giá ngựa đi, rồi giảm đồ ban thưởng xuống chỉ còn 1/5[3]. Dã Tiên từng có hứa hẹn thông gia với nhà Minh, thấy triều Minh có ý khất việc đó và làm nhục sứ bộ, bèn nhân cớ đó để khởi binh.
Diễn biến
Dã Tiên ra quân
Mùa hè năm Kỉ Tị (1449), Dã Tiên tập kết binh mã các nơi chuẩn bị tiến xuống phía nam. Tin truyền đến Bắc Kinh, Minh Anh Tông cử sứ đến các Tuyên Phủ, Đại Đồng chỉnh đốn quân bị để đối phó. Tuy nhiên trong triều vẫn có người lén lút mang vũ khí đổi lấy ngựa tốt của Dã Tiên[4].
Tháng 7 năm Kỉ Tị, Dã Tiên khởi đại quân chia làm 4 đường đánh vào Đại Minh:
- Đường phía đông do Khả hãn Thoát Thoát Bất Hoa lĩnh quân Sở Bộ cùng Ngột Lương Cáp đánh Liêu Đông
- Đường phía tây do một biệt tướng tấn công Cam châu (Trường Dịch, Cam Túc)
- Cánh quân đi đường trung bộ, do A Thích Tri Viện đánh Tuyên Phủ
- Cánh quân còn lại cũng đi đường trung bộ do Dã Tiên chỉ huy, tấn công Đại Đồng
Ngày Kỉ Sửu (11) tháng 7 (30 tháng 7), quân Ngõa Lạt của Dã Tiên ồ ạt tấn công Đại Đồng. Tướng Ngô Hạo nhà Minh đụng độ Dã Tiên ở Miêu Nhi Trang bị đại bại và tử trận cùng 3 vạn quân sĩ. Minh Anh Tông điều Tỉnh Nguyên mang 4 vạn quân ra cứu viện, cũng bị tiêu diệt hoàn toàn[4].
Minh Anh Tông thân chinh
Tình thế nguy cấp, hoạn quan Vương Chấn ra sức cổ vũ Anh Tông thân chinh noi theo gương các vua đời trước đánh Mông Cổ như Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ. Minh Anh Tông quen hưởng lạc, chưa có kinh nghiệm gian khổ trận mạc nên nghĩ việc quân sự khá đơn giản và nghe theo lời Vương Chấn[5].
Các đại thần như Thượng thư Bộ Binh là Khoáng Dã, Hữu thị lang Bộ Binh là Vu Khiêm, Thượng thư bộ Lại là Vương Trực... thấy Anh Tông định thân chinh, vội vã dâng sớ can ngăn, nhưng Anh Tông nhất định không nghe theo. Ngày rằm tháng 7 năm đó, ông ban chiếu thân chinh, để em là Thành vương Chu Kỳ Ngọc trấn thủ kinh thành, Phò mã đô úy Tiêu Kính phụ chính[6].
Tình hình ngoài mặt trận càng ngày càng bất lợi cho quân Minh. Tại Tuyên Phủ, quân Ngõa Lạt bao vây quân Minh nhiều ngày, cắt đứt nguồn nước. Tại Đại Đồng, các tướng trấn thủ là Tống Anh, Chu Miện Thạch Hanh ra đánh đều thua nặng; Tống Anh và Chu Miện tử trận cùng nhiều quân sĩ, chỉ còn Thạch Hanh chạy trốn thoát thân.
Quyết sách của Vương Chấn
Ngày Giáp Ngọ (16) tháng 7 (4 tháng 8), Anh Tông lên đường ra mặt trận, mang theo 50 vạn tướng sĩ[7][8], đêm hôm đó đại quân đóng ở Ma Gia Lĩnh. Ngày Ất Mùi (17) tức 5 tháng 8, Minh Anh Tông đóng ở Long Hổ Đài, ngay trong đêm đó quân Minh đã cướp đoạt đồ của nhau, thành ra hỗn loạn.
Ngày Đinh Dậu (19) tức 7 tháng 8, Minh Anh Tông ra khỏi Cư Dung Quan, ngày 20 âm đến Du Lâm, ngày 21 âm đến Hoài Lại, ngày 22 âm đến Lôi Gia Phạm, ngày Tân Sửu (23) tức 11 tháng 8 đến Tuyên Phủ. Những ngày hành quân liên tiếp có mưa gió, mọi người lo lắng, lương thảo không đủ, quân lĩnh đều mệt mỏi. Các quan xin Anh Tông ngừng hành quân vì quân sĩ kém hăng hái. Nhưng Anh Tông giao hết quyền cho Vương Chấn. Vương Chấn một mực muốn đánh, hạ lệnh ba quân bày trận[9].
Ngày 24 tháng 7 âm, Anh Tông đến núi Kê Minh, ngày 25 tới hẻm núi Vạn Toàn, ngày 26 âm tới phía tây thành Hoài An, ngày 27 âm đến phía tây thành Thiên Thành, ngày Bính Ngọ (28) tức 16 tháng 8 tới phía nam thành Dương Hòa. Quân sĩ trông thấy xác chết của quân nhà trong trận đánh trước đó với quân Ngõa Lạt, đều hoảng sợ.
Ngày 29 tháng 7 âm, Anh Tông tới trạm dịch Tu Lạc. Ngày Mậu Thân (1) tháng 8 tức 18 tháng 8 thì đại quân đến Đại Đồng. Lúc này Dã Tiên sau trận thắng đã chủ động rút về phía bắc chờ đợi thời cơ. Vương Chân muốn phát lệnh bắc tiến, thái giám thân tín là Quách Kính vội báo với Vương Chấn về tình hình bi đát ngoài mặt trận của quân Minh. Vương Chấn biết tin thật, bắt đầu lo lắng, bèn quyết định tuyên bố "chiến thắng" và vội vàng rút quân trở về[10].
Ngày 2 tháng 8 âm, đại quân bắt đầu rút về phía đông. Ban đầu, Vương Chấn định đi theo đường Tử Kinh Quan là đường ngắn để về nhanh. Tuy nhiên, đây cũng là đường qua Úy châu[11] – quê Vương Chấn. Đi được 40 dặm, Vương Chấn chợt thay đổi ý định, sợ số quân lớn 50 vạn người sẽ giẫm nát lúa màu của trang trại nhà mình, do đó quyết định đổi hướng hành quân từ đường đông nam lên đường đông bắc, đi theo đường cũ từ Tuyên Phủ[12] về kinh. Việc thay đổi lộ trình vừa kéo dài thời gian, vừa gây ra nghi hoặc lớn trong các tướng sĩ[10].
Ngày 3 tháng 8 âm, Anh Tông tới Trích Trích Thủy, ngày 4 âm đến Phương Thành, Hồng châu, ngày 5 âm đến Bạch Đăng, ngày 6 đến phía tây thành Hoài An, ngày 7 âm đến Tuyên Phủ.
Quân Minh bại trận
Dã Tiên phát hiện quân Minh đi đường vòng mất thời gian, bèn dẫn quân từ phía bắc đón đường vây đánh. Thượng thư Bộ Binh là Khoáng Dã đề nghị cử tinh binh đi sau cùng chặn hậu, còn xa giá phải nhanh chóng chạy vào cửa ải, nhưng Vương Chấn ra sức phản đối.
Ngày Đinh Tị (10) tháng 8 tức 27 tháng 8, Minh Anh Tông đến đông nam Tuyên Phủ, ngày 11 âm đến trạm Lôi Gia, ngày 12 âm sắp khởi hành thì nhận được tin báo quân Dã Tiên đã đuổi tới gần. Ngày Canh Thân (13) tháng 8 tức 30 tháng 8, Anh Tông bèn hạ lệnh đóng quân dựng trại một chỗ, cử anh em Ngô Khắc Trung và Ngô Khắc Cần ra chặn hậu. Dã Tiên đánh tới, giết chết anh em họ Ngô cùng toàn bộ quân Minh. Chập tối, Anh Tông nghe tin anh em họ Ngô tử trận, bèn cử Chu Dũng, Tiết Phụ mang 4 vạn quân ra đánh, nhưng gặp phục binh ở hẻm núi Diều Nhi, toàn quân bị tiêu diệt.
Anh Tông cùng đại quân tới pháo đài Thổ Mộc – Thổ Mộc bảo[13], phía đông cách thành Hoài Lai 20 dặm. Quần thần kiến nghị kéo đến bảo vệ Hoài Lai, nhưng Vương Chấn cho rằng còn hơn 1000 xe quân dụng chưa tới, hạ lệnh toàn quân đóng lại Thổ Mộc Bảo để chờ đợi. Quân Minh chọn chỗ cao đóng trại, nhưng không tìm được nguồn nước.
Dã Tiên nắm được điểm yếu trong việc đóng quân của nhà Minh, Dã Tiên nhanh chóng cho quân Ngõa Lạt cắt đứt đường tiếp tế nước của quân Minh với con sông nằm ở phía Nam của Thổ Mộc bảo. Kỵ binh Ngõa Lạt đuổi đến nơi, bao vây chặt quân Minh, cắt đường nước suối phía nam cách đó 15 dặm. Quân Minh đào đất sâu hơn 2 trượng vẫn không tìm được mạch nước. Quân Minh bị đói khát, phải kịch chiến suốt đêm ở phụ cận Ma Cốc Khẩu. Quân Minh không tìm được đường ra, Vương Chấn cũng hoảng hốt không dám hạ lệnh khởi hành.
Ngày Nhâm Tuất (15) tháng 8 tức 1 tháng 9, đang lúc nguy cấp, có sứ giả của Dã Tiên tới xin nghị hòa, làm ra vẻ muốn rút quân. Anh Tông và Vương Chấn không biết là dối trá, bèn cho học sĩ Tào Nại thảo chiếu nghị hòa, rồi sai sứ sang gặp Dã Tiên. Vương Chấn cho rằng vòng vây đã được mở, vội hạ lệnh cho quân đi đến chỗ có gần nước. Trong lúc quân Minh tranh nhau đi lấy nước mất hàng lối thì quân Ngõa Lạt đột ngột tấn công. Mấy chục vạn quân Minh không kịp trở tay, không có đường chạy trốn, bị tử trận, thây nằm ngổn ngang[14][15].
Trong lúc hỗn loạn, Vương Chấn bị hộ vệ tướng quân Phàn Trung nổi giận cầm gậy đánh chết. Sau đó Phàn Trung ra trận nhưng không chống nổi quân Ngõa Lạt và bị tử trận. Cùng bị giết với mấy chục vạn quân Minh có trên 50 quan văn võ là: Trương Phụ, Trần Doanh, Vương Tá (Thượng thư Bộ Hộ), Khoáng Dã (Thượng thư Bộ Binh), Tào Nại, Đình Tư, Vương Vĩnh Hòa, Đặng Khởi[14].
Minh Anh Tông bị bắt
Minh Anh Tông biết không còn khả năng trốn chạy, bèn xuống ngựa chọn chỗ ngồi nhìn về hướng nam, chỉ còn 1 viên hoạn quan bên cạnh. Một kị binh Ngõa Lạt đuổi đến, muốn lấy bộ áo giáp quý giá trên người ông, nhưng ông cự tuyệt. Người lính Ngõa Lạt định giết ông thì anh người đó phi ngựa tới ngăn lại vì trông thấy phong cách bất thường của ông. Hai anh em người lính dẫn Minh Anh Tông đến gặp em Dã Tiên là Trại San vương[16].
Vừa gặp Trại San vương, Anh Tông cất tiếng hỏi thân thế. Trại San vương nghe khẩu khí ông rất kinh ngạc, vội báo cho Dã Tiên. Dã Tiên bèn sai hai thủ hạ là Cáp Ba quốc sư và Cáp Giả Lý Bình Chương từng đi sứ nhà Minh đến nhận mặt. Sau khi xác định rõ là vua nhà Minh, Dã Tiên rất mừng, cho rằng đã có cơ hội tiến vào trung nguyên như các vua nhà Nguyên trước đây[2].
Dã Tiên muốn lấy Anh Tông làm con tin, bèn mang ông tới giao cho doanh trại của Bá Nhan Thiếp Mục Nhi phải bảo vệ.
Hậu quả và ý nghĩa
Quân Minh thất bại nặng nề, tổn thất nhân sự rất lớn trong sự biến Thổ Mộc bảo. Minh Anh Tông chủ quan thiếu sự chuẩn bị và chỉ huy sáng suốt. Bản thân Dã Tiên cũng không ngờ rằng ông có thể giành được một thắng lợi lớn tới vậy trên chiến trường chỉ bằng chưa đầy 5.000 kỵ binh trong số 20.000 quân Ngõa Lạt tiến qua biên giới Trung Quốc.
Sự biến Thổ Mộc Bảo biến vua Minh Anh Tông trở thành tù binh trong tay người Ngõa Lạt trong 1 năm[17]. Nhà Minh trải qua cuộc khủng hoảng nặng nề[18]. Dã Tiên bắt được Minh Anh Tông, muốn dùng làm con tin để đánh chiếm các thành trì đất đai của nhà Minh.
Được tin Anh Tông bị bắt, Bắc Kinh rơi vào tình trạng hỗn loạn vì trong thành chỉ còn khoảng 10 vạn quân và ngựa già yếu[19]. Triều đình nhà Minh từng có ý kiến định dời đô về phía nam, nhưng Thượng thư Bộ Binh mới là Vu Khiêm cương quyết tử thủ tại kinh thành. Tôn thái hậu gấp gáp đối phó, lập em Anh Tông là Thành vương Chu Kỳ Ngọc lên làm vua mới, tức là Minh Đại Tông, lấy niên hiệu là Cảnh Thái và vọng tôn Anh Tông làm thái thượng hoàng[20].
Ngày 13 tháng 10 âm, quân Ngõa Lạt đánh thành Bắc Kinh. Quân Minh dưới sự chỉ huy của Vu Khiêm đã kháng cự mãnh liệt. Vu Khiêm đã bất chấp sự đe dọa của Dã Tiên và tiếp tục giữ vững Bắc Kinh. Dã Tiên cố sức đánh hơn 1 ngày không nổi, lại sợ viện binh quân Minh các nơi kéo đến chặn đường về, nên ngày 15 tháng 10 hạ lệnh nhổ trại lui về phía bắc.
Phía Ngõa Lạt, ý định dùng Minh Anh Tông để mở rộng thế lực sau đó bất thành nên sang năm sau đành trả lại Anh Tông. Sự kiện Anh Tông bị bắt và đổi ngôi vua mới Đại Tông được triều đình nhà Minh gửi chiếu thư báo cho nước Đại Việt vào ngày 21 tháng 6 âm lịch tức 19 tháng 7 năm 1451 (triều vua Lê Nhân Tông)[21]. Các sử gia xác nhận Đại Việt là nước chư hầu duy nhất ở Đông Nam Á mà nhà Minh thông báo chính thức sự kiện này[22].
Dã Tiên bị chỉ trích kịch liệt vì đã không tận dụng được cơ hội lớn này để mở phát triển bờ cõi của Ngõa Lạt và bị ám sát năm 1455, 6 năm sau chiến thắng vang dội ở Thổ Mộc Bảo. Sự biến Thổ Mộc Bảo là bước ngoặt chuyển của vương triều Minh chuyển từ sơ kỳ sang trung kỳ[14]. Nhà Minh tiếp tục trải qua cuộc đấu tranh giành quyền lực nữa giữa vua mới và vua cũ trong vòng 7 năm (1450-1457) và kết thúc bằng sự trở lại ngôi vua của Minh Anh Tông.
Xem thêm
Tham khảo
- An Tác Chương (1996), Chuyện những kẻ bạo tàn trong lịch sử, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
- Vương Thiên Hữu chủ biên (2004), Mười sáu hoàng đế triều Minh, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
- Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 3, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
- Minh thực lục - Quan hệ Trung Quốc - Việt Nam thế kỷ 14-17, Hồ Bạch Thảo dịch, Nhà xuất bản Hà Nội, 2010
- Hồ Hán Sinh (2002), Bí mật lăng tẩm triều Minh, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin
- Đặng Huy Phúc (2001), Các hoàng đế Trung Hoa, Nhà xuất bản Hà Nội
- Cambridge History of China, Volume 7, The Ming Dynasty", edited by Twitchett and Mote, 1988.
- Frederick W. Mote. "The T'u-Mu Incident of 1449." In Chinese Ways in Warfare, edited by Edward L. Dreyer, Frank Algerton Kierman and John King Fairbank. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1974.
Chú thích
- ↑ 1,0 1,1 Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 316
- ↑ 2,0 2,1 Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 328
- ↑ An Tác Chương, sách đã dẫn, tr 89
- ↑ 4,0 4,1 Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 320
- ↑ Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 321
- ↑ An Tác Chương, sách đã dẫn, tr 90
- ↑ Cite error: Invalid
<ref>
tag; no text was provided for refs namedvth322
- ↑ Cite error: Invalid
<ref>
tag; no text was provided for refs namedAn_T.C3.A1c_Ch.C6.B0.C6.A1ng.2C_s.C4.91d.2C_tr_90
- ↑ Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 323
- ↑ 10,0 10,1 Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 324
- ↑ Nay là huyện Uất, Trương Gia Khẩu, Hà Bắc, Trung Quốc
- ↑ Nay là Tuyên Hóa, Hà Bắc
- ↑ Nằm ở phía tây huyện Hoài Lai
- ↑ 14,0 14,1 14,2 Cite error: Invalid
<ref>
tag; no text was provided for refs namedvth326
- ↑ An Tác Chương, sách đã dẫn, tr 93
- ↑ Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 327
- ↑ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 133
- ↑ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 22
- ↑ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 123
- ↑ An Tác Chương, sách đã dẫn, tr 95
- ↑ Minh thực lục, tập 1, tr 99; tập 3, tr 55-56, Hồ Bạch Thảo dịch từ nguyên văn tại Anh Tông thực lục trong bộ Minh thực lục, quyển 205, tr 12a-13b. Minh Đại Tông thông báo việc này cho Đại Việt sau khi đã đón Anh Tông trở về
- ↑ Minh thực lục, tập 1, tr 99: Phần Giới thiệu và các bài nghiên cứu về Minh thực lục
Thể loại:Nhà Minh
Thể loại:Xung đột 1449
Thể loại:Xung đột năm 1449